Hồi tháng 2, Chỉ số Áp lực Chuỗi Cung ứng Toàn cầu (GSCPI) do Fed New York công bố đã giảm xuống mức trước đại dịch. Đến tháng 3, chỉ số này thậm chí xuống dưới mức trung bình trong lịch sử 25 năm theo dõi. GSCPI được tính toán dựa trên dữ liệu ngành sản xuất và vận tải, nhằm đưa ra cái nhìn tổng quan về khả năng gián đoạn chuỗi cung ứng.
Vì vậy, một số người cho rằng chỉ số này báo hiệu tình trạng thiếu hụt sản phẩm, tắc nghẽn cảng và gián đoạn vận chuyển trong ba năm qua đã kết thúc. Kỷ nguyên ổn định mới sẽ được mở ra. Fed New York mô tả chuỗi cung ứng đã gần như “trở lại bình thường”.
Tuy nhiên, các chuyên gia trong ngành cho rằng điều này không có nghĩa các công ty đang quay trở lại chuỗi cung ứng trước đây. Những trải nghiệm trong đại dịch, cùng các biến động địa chính trị, đang tạo ra thay đổi lớn hơn, dài hạn hơn trong chuỗi cung ứng. Việc này diễn ra cả ở khâu nguyên liệu thô, sản xuất và phân phối sản phẩm.
Điều này có thể nhận thấy rõ tại các nhà máy ở Ấn Độ, các cơ sở lắp ráp ôtô ở miền bắc Mexico, các cảng từ Đông Nam của Mỹ đến Đông Phi, cũng như các mỏ khoáng sản ở Canada và Thụy Điển. Đây là nơi các công ty đang thực hiện nguyên tắc về khả năng phục hồi, khu vực hóa và đa dạng hóa nhà cung cấp – những ưu tiên hàng đầu khi đối phó với các đợt phong tỏa năm 2020.
Chỉ số Áp lực Chuỗi Cung ứng Toàn cầu
Patrick Van den Bossche, Chuyên gia phân tích tại công ty tư vấn Kearney xác nhận tình trạng căng thẳng và thiếu hụt nguồn cung đã giảm. Mọi thứ bớt bận rộn hơn rất nhiều. “Nhưng chúng ta chắc chắn chưa thể trở lại bình thường. Rất nhiều thứ đã thay đổi”, ông nói.
Những thay đổi bề ngoài bao gồm giảm phụ thuộc vào châu Á, đặc biệt là Trung Quốc, và tăng tự động hóa tại các dây chuyền lắp ráp cũng như nhà kho. Apple đang chuyển một số hoạt động sản xuất điện thoại thông minh từ Trung Quốc sang Ấn Độ. Nhà sản xuất đồ chơi Mattel mở rộng hiện diện ở Mexico. Thậm chí, Hisense – một công ty Trung Quốc – cũng đang tìm cách sản xuất thiết bị ở Mexico để cung cấp cho Mỹ.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, nhiều thay đổi dài hạn khác sẽ ảnh hưởng đến cách các công ty nhập nguyên liệu – phụ tùng, chọn nơi sản xuất hàng hóa, cũng như vận chuyển thành phẩm đến người tiêu dùng. Đây sẽ là chuyển biến lớn nhất trong cách quản lý chuỗi cung ứng kể từ khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2001, mở ra kỷ nguyên toàn cầu hóa mới.
Theo đó, chuỗi cung ứng sau đại dịch đang được xây dựng với trọng tâm là khu vực hóa. Tức là sản xuất gần hơn nơi tiêu thụ hơn. Các công ty cũng đang mở rộng mạng lưới nhà cung cấp khắp thế giới, tránh việc tìm nguồn cung ứng đơn lẻ. Họ đang tự động hóa mọi thứ, từ hoạt động kho bãi đến mua nguyên vật liệu.
Những thay đổi này sẽ giúp chuỗi cung ứng có khả năng chống lại sự gián đoạn tốt hơn. “Các công ty đang chuyển từ mô hình có lợi ích tài chính lớn nhất sang mô hình có thể dự phòng tốt nhất”, Van den Bossche nói. Theo ông, việc giảm phụ thuộc Trung Quốc chỉ mới bắt đầu. Các công ty vẫn đang cố gắng tìm ra cách thức phù hợp.
Nhà tư vấn Rick Gabrielson, Cựu giám đốc vận tải cấp cao tại Target và Lowe’s cho biết nhiều công ty đang xem xét chiến lược tìm nguồn cung ứng, bao gồm việc liệu có đang tập trung mua nhiều hàng hóa hoặc linh kiện từ một quốc gia hay doanh nghiệp không.
Thay đổi lớn nhất có lẽ là quan điểm về hàng tồn kho. Trước đại dịch, các công ty thực hiện chiến lược tinh gọn để cắt giảm chi phí và nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng. Tuy nhiên, sau thời gian dài thiếu hụt sản phẩm và nhà máy phải ngừng hoạt động vì thiếu linh kiện, các doanh nghiệp nhận ra cần dự trữ lượng hàng đủ lớn để điều hóa giá cả nếu đứt nguồn cung đột ngột.
Gabrielson cho rằng theo thời gian, các công ty sẽ thích nghi bằng cách trữ nhiều hàng tồn kho hơn. Họ có thể quản lý rủi ro bằng những cách khác, như bổ sung nhà cung cấp.
Tuy nhiên, các thách thức để tái định hình chuỗi cung ứng cũng không nhỏ. Việc dàn trải nhà cung cấp gần như chắc chắn sẽ làm tăng thêm chi phí. Nhưng Gabrielson cho rằng các công ty phải cân bằng điều đó với khả năng xảy ra gián đoạn trong tương lai.
“Bạn phải tự hỏi mình, bạn muốn cái nào? Chúng ta sẽ giảm thiểu rủi ro cho cổ đông và khách hàng hay giảm thiểu chi phí? Các cuộc thảo luận đang diễn ra, nhưng sự thay đổi sẽ không đến ngay đâu”, ông nói.
Ngoài ra, quy định về môi trường ngày càng khắt khe và nỗ lực cắt giảm khí thải carbon cũng khiến kế hoạch đa dạng hóa nguồn cung ứng phức tạp hơn. Tại Mỹ, Ủy ban Chứng khoán đang thúc đẩy kế hoạch yêu cầu các công ty tiết lộ lượng khí thải carbon của chính họ và các nhà cung cấp. “Tính bền vững làm tăng thêm sự phức tạp và chi phí”, Gabrielson nhận định.
Yossi Sheffi, Giám đốc Trung tâm Vận tải và Hậu cần của Viện Công nghệ Massachusetts, cho biết việc áp dụng công nghệ để tăng tốc sản xuất và vận chuyển hàng hóa trong đại dịch sẽ có tác động lâu dài đến chuỗi cung ứng.
Qua đại dịch, ông chỉ ra các công ty hàng tiêu dùng đã nhanh chóng điều chỉnh lại chuỗi cung ứng bằng cách cắt giảm dòng sản phẩm, thiết lập lại nguồn cung và sử dụng các công cụ khác để hồi phục. Vị chuyên gia nhận xét doanh nghiệp đã học được nhiều điều mà họ không nghĩ là có thể. “Họ đã học được cách nhanh nhẹn hơn và đó có thể là điều quan trọng nhất”, ông nói.