Tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu 4 tỉnh trục cao tốc phía Đông

Ngày 2/3, tại TP Hải Dương, VCCI phối hợp với Tổng cục Hải quan và 4 tỉnh, thành tổ chức hội nghị tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong hoạt động xuất nhập khẩu.

Sự kiện đối thoại được tổ chức ở cấp tiểu vùng với sự tham gia của các doanh nghiệp đến từ 4 tỉnh, thành phố, gồm: TP Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên và Quảng Ninh.

Thúc đẩy thực hiện thỏa thuận “Kết nối kinh tế Trục cao tốc phía Đông”

Trước đó, ngày 28/7/2022, 4 tỉnh, thành: Hải Phòng – Quảng Ninh – Hải Dương – Hưng Yên và VCCI đã ký kết thỏa thuận kết nối kinh tế trục cao tốc phía đông; trong giai đoạn đầu việc kết nối tập trung vào 8 lĩnh vực: Liên kết xúc tiến thương mại, đầu tư; Liên kết trong giao thông và logictics; Liên kết trong chuỗi cung ứng sản xuất; Liên kết trong phát triển du lịch, dịch vụ; Liên kết cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; Liên kết đào tạo và cung ứng nguồn nhân lực; Liên kết trong bảo vệ môi trường; Liên kết trong nông nghiệp và chế biến nông sản và ứng dụng công nghệ cao.

Hội nghị tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong hoạt động xuất nhập khẩu.

Phát biểu khai mạc hội nghị, ông Hoàng Quang Phòng – Phó Chủ tịch VCCI cho biết, hội nghị đối thoại ngày hôm nay hướng đến việc thúc đẩy sự tương tác trực tiếp và tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa cộng đồng doanh nghiệp và các cơ quan chức năng liên quan đến chính sách xuất nhập khẩu. Sự kiện cũng góp phần thực hiện mục tiêu liên kết kinh tế đã được VCCI cùng UBND của bốn địa phương xây dựng trong thỏa thuận “Kết nối kinh tế trục cao tốc phía Đông”. Đây là một thỏa thuận quan trọng giúp phát huy các tiềm năng và điều kiện của bốn địa phương nằm trên trục đường cao tốc hướng đông, từ Hà Nội tới Hải Phòng đến cửa khẩu Móng Cái (Quảng Ninh).

Mô hình liên kết này sẽ tạo ra động lực phát triển kinh tế mạnh mẽ, xây dựng một khu vực năng động, một điểm đến hấp dẫn với các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước. Đặt trong bối cảnh ấy, hội nghị đối thoại ngày hôm nay sẽ thúc đẩy việc thực hiện thỏa thuận “Kết nối kinh tế Trục cao tốc phía Đông” trong năm 2023 với trọng tâm cải thiện môi trường kinh doanh và xúc tiến thương mại.

Sáng kiến kết nối kinh tế trục cao tốc phía Đông hướng tới việc xây dựng một mô hình liên kết tiểu vùng, tạo thành một không gian kinh tế mới có một môi trường kinh doanh thuận lợi, tăng trường kinh tế cao và có cộng đồng doanh nghiệp phát triển mạnh, tạo ra cực tăng trưởng trong vùng đồng bằng sông Hồng và khu vực phía Bắc.

Mô hình kết nối quy mô gọn chỉ 4 tỉnh, thành, phạm vi chỉ về kinh tế, giai đoạn đầu tập trung vào kết nối, phối hợp các hoạt động cụ thể với sự điều phối của Hội đồng vùng và Ban thư ký, có ý nghĩa như một thử nghiệm góp phần thực hiện Nghị Quyết 57/NQ-CP ngày 21/4/2022 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp hoàn thiện thể chế liên kết vùng kinh tế – xã hội.

Doanh nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn

Cũng tại sự kiện, ông Hoàng Quang Phòng – Phó Chủ tịch VCCI cho biết, sự kiện ngày hôm nay sẽ tập trung vào việc tháo gỡ các khó khăn cho cộng đồng doanh nghiệp tại bốn tỉnh thuộc trục cao tốc phía Đông gồm TP. Hải Phòng, tỉnh Quảng Ninh, tỉnh Hải Dương và tỉnh Hưng Yên. Với sự có mặt đông đảo của các cơ quan chức năng ở cả trung ương và địa phương cũng như sự tham gia của các hiệp hội doanh nghiệp và nhiều doanh nghiệp từ bốn địa phương, chúng tôi kỳ vọng sẽ có những trao đổi thẳng thắn, chân thành nhằm phản ánh những vướng mắc về chính sách xuất nhập khẩu trong thực tiễn. Chúng tôi cũng chờ đợi những đề xuất hợp lý nhằm giải quyết vấn đề, qua đó hỗ trợ hiệu quả công tác cải cách hành chính và tạo thuận lợi thương mại trong thời gian sắp tới – ông Phòng chia sẻ.

Ông Hoàng Quang Phòng – PCT Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phát biểu tại hội nghị

Ông Trần Văn Quân – PCT UBND tỉnh Hải Dương cho biết, trong thời gian qua, Chính phủ và các bộ ngành đã có rất nhiều nỗ lực nhằm đơn giản hóa các thủ tục xuất, nhập khẩu, gỡ bỏ các hàng rào thuế quan và tăng cường tính minh bạch trong chính sách thương mại, đồng thời thiết lập các cơ chế để giải quyết các khó khăn vướng mắc của doanh nghiệp. Nhưng thực tế cho thấy, cộng đồng doanh nghiệp vẫn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện các chính sách, thủ tục liên quan đến các hoạt động thương mại qua biên giới.

Tại Hội nghị “Đối thoại tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp tiểu vùng trong hoạt động xuất nhập khẩu” ngày hôm nay, tôi mong muốn các doanh nghiệp mạnh dạn thể hiện quan điểm, nêu rõ được những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động xuất nhập khẩu; nguyên nhân do đâu, do cán bộ công chức hay do cơ chế chính sách chưa phù hợp… để các đồng chí lãnh đạo bộ, ngành Trung ương, các chuyên gia kinh tế và Lãnh đạo VCCI cùng bàn phương án tháo gỡ khó khăn, giúp các doanh nghiệp thuận lợi trong hoạt động xuất nhập khẩu; tạo sự gắn kết, thúc đẩy quan hệ đối tác giữa chính quyền và doanh nghiệp; tăng cường tiếng nói của doanh nghiệp trong quá trình vận động chính sách tạo thuận lợi thương mại.

Về phía Hải Dương, chúng tôi cam kết sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhất để các doanh nghiệp nghiên cứu đầu tư và thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh, trong đó có hoạt động xuất nhập khẩu. Trường hợp có khó khăn, vướng mắc thuộc trách nhiệm giải quyết của UBND tỉnh và các sở, ban, ngành chúng tôi cam kết sẽ chỉ đạo giải quyết nhanh nhất có thể – ông Quân nhấn mạnh.

Ông Trần Văn Quân – PCT UBND tỉnh Hải Dương

Tại hội nghị ông Trương Đức Trọng – Ban Pháp chế VCCI đã đưa ra một số khó khăn vướng mắc của doanh nghiệp qua 3 nhóm vấn đề.

Vấn đề thứ nhất là tiếp cận thông tin, ông Trọng cho biết khoảng 38% doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn khi tìm hiểu thông tin thủ tục hành chính. Trong đó, doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp quy mô lớn và hoạt động lâu năm nhìn chung phản ánh việc tìm hiểu thủ tục hành chính còn nhiều khó khăn hơn các nhóm khác.

Bên cạnh đó, vấn đề minh bạch thông tin liên quan đến chính sách, thủ tục XNK còn thiếu vắng phương thức cung cấp thông tin toàn diện, đẽ hiểu và dễ sử dụng. Thiếu vắng các hỏi đáp về các vấn đề thương mại quốc tế. Khó khăn khi tra cứu thông tin và hỏi đáp giải quyết vướng mắc trên cổng một cửa quốc gia.

Nhóm vấn đề thứ 2 là thực hiện các thủ tục hải quan, ông Trọng cho biết, mức độ thuận lợi khi tuân thủ các thủ tục hành chính hải quan tương đối khác biệt. Doanh nghiệp lo ngại các quy định pháp luật về thông quan hay thay đổi. Thời gian hoàn thuế giá trị gia tăng kéo dài khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, thời gian kiểm tra kéo dài và nội dung kiểm tra chồng chéo. Doanh nghiệp thường gặp trở ngại ở giai đoạn trước khi khai hải quan đối với mã xác nhận HS và ở giai đoạn khai hải quan với xác định giá trị hải quan.

Nhóm vấn đề thứ 3 về thủ tục quản lý và kiểm tra chuyên ngành, ông Trọng cho biết, mức độ thuận lợi khi tuân thủ các thủ tục kiểm tra chuyên ngành trong lĩnh vực quản lý chất lượng hàng hoá ở mức trung bình. Không có thủ tục nào nhận được trên 70% được đánh giá tương đối dễ hoặc dễ thực hiện. Kiểm tra chuyên ngành về an toàn thực phẩm, ông Trọng cho biết tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá việc tuân thủ tương hoặc dễ thực hiện chỉ đạt tối đa 66%. Không có khâu quy trình nào nhận được từ 70% ý kiến doanh nghiệp trở lên đánh giá việc tuân thủ là dễ hay tương đối dễ. Khâu quy trình nộp hồ sơ đăng ký kiển tra là bước được doanh nghiệp nhìn nhận dễ tuân thủ nhất trong 4 khâu. Trong khi lấy mẫu kiểm tra là khâu doanh nghiệp thường gặp khó khăn hơn cả. 59% doanh nghiệp đã gặp ít nhất một loại khó khăn nào đó trong quá trình tuân thủ kiểm tra chuyên ngành…

Ông Trương Đức Trọng – Chuyên viên Ban pháp chế VCCI

Ông Trọng cũng đưa ra một số khuyến nghị, một số lĩnh vực cần tập trung cải thiện. Đối với cơ quan Hải quan, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật Hải quan với tính ổn định, nhất quán, hiện đại, khả thi, công khai, minh bạch và dễ tiếp cận. Hài hoà các thủ tục hải quan phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Áp dụng đồng bộ các phương thức quản lý hải quan hiện đại trong giải quyết thủ tục từ khai hải quan, thông quan đến kiểm tra sau thông quan…

Đối với các cơ quan quản lý và kiểm tra chuyên ngành, cần tập trung cải thiện những lĩnh vực, khâu quy trình còn phiền hà như các thủ tục kiểm tra chuyên ngành, rà soát hoạt động lấy mẫu kiểm tra vì đây là khâu doanh nghiệp thường phản ánh gặp khó khăn. Đồng thời giảm tình trạng chồng chéo trong kiểm tra chuyên ngành. Trong đó, nghiên cứu giảm số mặt hàng và số lô thuộc diện kiểm tra chuyên ngành, áp dụng đầy đủ và thực chất nguyên tắc quản lý rủi ro, rà soát những điểm chồng chéo giữa các quy định pháp lý về kiểm tra chuyên ngành…

Bên cạnh đó, ông Trọng cũng cho rằng, doanh nghiệp cần tìm hiểu và nắm rõ các quy định pháp luật, các chính sách hiện hành về xuất nhập khẩu… Tăng cường hiểu biết về công nghệ thông tin để ứng dụng hiệu quả hơn trong thực hiện thủ tục hành chính. Liên kết và tận dụng hiệu quả kênh Hiệp hội doanh nghiệp.

Hiệp hội kiến nghị

Bà Lương Thu Hương – Chủ tịch HHDN tỉnh Hải Dương cho biết, hoạt động XNK của nhiều doanh nghiệp vấn còn nhiều khó khăn vướng mắc, như việc kiểm tra chuyên ngành trong xuất nhập khẩu hàng hóa vẫn chưa nhanh gọn, cập nhật thông tin chưa đồng bộ. Đơn cử, đã nộp thuế qua online, nhưng phải chụp bản nộp cho cơ quan hải quan. Thời gian kiểm tra thông quan vẫn còn chậm ảnh hưởng đến chất lượng hàng hóa, đặc biệt là nông sản. Các thủ tục hành chính còn nhiều  điểm chưa có sự thống nhất đồng bộ giữa các bộ ngành, cơ quan… Bên cạnh đó, dịch vụ logistics chưa có chuỗi toàn diện như cảng biển, kho tàng, bến bãi, nên còn phức tạp chưa đầy đủ, chưa đồng bộ, hàng phải bảo quản lạnh chưa có chỗ chứa ở khu vực cảng.

Bà Lương Thu Hương – Chủ tịch HHDN tỉnh Hải Dương

Về vấn đề nguồn nhân lực, bà Hương cho biết đa số chưa được đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực này, lái xe cũng cần phải đào tạo những kiến thức cơ bản trong quá trình vận chuyển, giao nhận hàng,… Trong khi đó, chưa có nhiều các khóa học theo chuyên đề cho các doanh nghiệp có nhu cầu kế hoạch xuất khẩu hàng hóa như: hướng dẫn qui trình cơ bản nhất trong quá trình tìm hiểu thị trường, văn hóa địa phương, các thủ tục hành chính, mặc dù các doanh nghiệp đã chủ động tìm hiểu qua các trang mạng, tài liệu,… nhưng cũng rất cần có các khóa học chuyên đề.

Vì vậy để hoạt động thương mại xuyên biên giới thuận lợi và giúp các doanh nghiệp  xuất nhập khẩu giảm thiểu khó khăn, bà Hương đề nghị, các bộ ngành cần thống nhất hướng dẫn quy định để doanh nghiệp XNK thực sự chỉ qua 1 cửa đồng thời rút gọn hơn nữa thời gian kiểm tra thông quan, kiểm tra chuyên ngành, xem xét bổ sung các quy định theo các cam kết FTA; tiếp tục cải cách hành chính để giảm thiểu thủ tục hành chính  XNK, đặc biệt là những giấy phép điều kiện không thực sự cần thiết.

Đồng thời đề nghị VCCI và các bộ ngành thường xuyên tăng cường tổ chức tập huấn chính sách để cập nhật chính sách quy định mới cho doanh nghiệp; Nâng cao năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ quản lý XNK hải quan, cán bộ chuyên môn để hạn chế tối đa các ách tắc, tiêu cực trong hoạt động XNK.

Đồng quan điểm với ông Trương Đức Trọng – Chuyên viên Ban pháp chế VCCI, ông Lê Mạnh Cương – PCT thường trực Hiệp hội Logistics Hải Phòng cho rằng, Việt Nam tham gia TFA từ năm 2015. Trong thời gian qua các bộ ngành rất tích cực cải cách các thủ tục hành chính để tạo thuận lợi hoá thương mại đặc biệt trong lĩnh vực hải quan, cấp CO đã giúp các doanh nghiệp đẩy mạnh XNK. Ngành Hải quan đã cải cách rất mạnh mẽ giảm bớt các thủ tục hành chính rút ngắn thời gian thông quan cho các lô hàng điển hình như hệ thống thông quan tự động VNaccs/Vcis, VNSW, CO. Các DN nghiệp cũng đã tận dụng và nắm bắt được những chính sách tạo thuận lợi để đẩy mạnh XNK.

Ông Lê Mạnh Cương – PCT thường trực Hiệp hội Logistics Hải Phòng

Tuy nhiên, ông Cương cho biết, các doanh nghiệp vẫn có một số kiến nghị cụ thể. Đó là, hệ thống một cửa quốc gia chưa có sự kết nối đồng bộ và chia sẻ dữ liệu của các cơ quan quản lý nhà nước. Ví dụ, doanh nghiệp khai báo thủ tục kiểm dịch thực vật cho lô hàng XNK trên cổng thông tin điện tử quốc gia (VNSW) khi cơ quan kiểm dịch cấp giấy chứng nhận kiểm dịch thì vẫn còn có công đoạn thủ công hoặc là doanh nghiệp in giấy chứng nhận kiểm dịch cầm cho cơ quan Hải quan xem hoặc thông báo bằng điện thoại cho công chức Hải Quan để làm các thao tác nghiệp vụ thông quan cho lô hàng trên hệ thống lúc đó tờ khai mới được thông quan.

Vẫn còn nhiều các mặt hàng phải kiểm tra chuyên ngành và cũng có nhiều mặt hàng thuộc quản lý từ 2 bộ ngành trở nên. Về thủ tục kiểm tra chuyên ngành, XNK hiện nay chỉ có thủ tục kiểm tra chuyên ngành trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm theo Nghị định 15/2018/CP ngày 02/02/2018 được áp dụng hình thức quản lý rủi ro, kiểm tra giảm, kiểm tra thông thường, và kiểm tra chặt. Việc công nhận, thừa nhận chất lượng hàng hóa của nước ngoài còn rất hạn chế. Về cơ bản, kiểm tra chuyên ngành hiện nay chưa áp dụng việc công nhận lẫn nhau, thừa nhận chất lượng hàng hóa của nước ngoài, áp dụng truy xuất nguồn gốc trong kiểm tra chuyên ngành.

Về phía Quảng Ninh, ông Nguyễn Văn Thể – Chủ tịch HHDN tỉnh Quảng Ninh cho biết, Quảng Ninh là một tỉnh thuận lợi về cửa khẩu đường bộ, đường biển và đường hàng không, chúng ta có thể xuất, nhập khẩu thương mại đến nhiều quốc gia, nhưng Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh vẫn xác định thị thường Trung Quốc là thị trường chủ yếu cho các doanh nghiệp tỉnh Quảng Ninh nói chung và các địa phương khu vực phía Bắc trong việc xuất nhập khẩu hàng hóa nói chung và nông, thổ, thủy sản nói riêng.

Để công tác thương mại xuyên biên giới mang lại hiệu quả cao, HHDN tỉnh Quảng Ninh đề xuất, cần xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, thông thoáng, tiếp tục giảm thiểu các thủ tục không cần thiết, rút ngắn các thủ tục xuất nhập khẩu thương mại, đầu tư; khuyến khích, phát triển các doanh nghiệp đầu tư cho hoạt động kinh doanh xuất, nhập khẩu xuyên biên giới.

Tăng cường để rút ngắn giai đoạn thực hiện chuyển đổi số toàn diện, thúc đẩy mạnh mẽ hơn kinh tế số và thương mại điện tử, nhằm hỗ trợ hoạt động xuất nhập khẩu thông qua thương mại điện tử… qua đó thuận lợi cho việc xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp và minh bạch hóa trong công tác điều hành, quản lý Nhà nước.

Các cơ quan chức năng tích cực tuyên truyền, quảng bá sản phẩm của tỉnh, của Việt Nam ra thị trường nước ngoài, tập huấn cho các doanh nghiệp tham gia thị trường xuất khẩu không chỉ đối với Trung Quốc mà trong tất cả các quốc gia đã ký kết Hiệp định Thương mại tự do song và đa phương (FTA) với Việt Nam vì đây là một thị trường có tiềm năng và rộng lớn; là một hình thức liên kết quốc tế giữa các quốc gia mà ở đó các danh mục mặt hàng đưa vào cắt giảm thuế quan; có lộ trình cắt giảm thuế quan, tiến tới phi thuế quan, giảm hoặc xóa bỏ thuế quan sẽ thuận lợi và giảm chi phí cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.

Theo Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp