Doanh nghiệp tận dụng lợi thế tiên phong chuyển đổi xanh
Các doanh nghiệp Việt Nam cần gấp rút chuẩn bị thích ứng kịp thời với những yêu cầu của cơ chế CBAM và tận dụng lợi thế của nhóm tiên phong chuyển đổi xanh.
Ngày 31/1 tới là thời điểm các nhà nhập khẩu được yêu cầu thu thập dữ liệu của quý IV/2023 và nộp báo cáo đầu tiên trong việc thực thi cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) ở giai đoạn chuyển tiếp. Từ 1/1/2026 – giai đoạn chính thức, doanh nghiệp có trách nhiệm chuẩn bị và nộp báo cáo CBAM hàng năm cũng như mua/trả lại chứng chỉ CBAM tương đương với lượng phát thải. Các doanh nghiệp không có nghĩa vụ nộp báo cáo cũng cần sẵn sàng tiếp nhận các yêu cầu cung cấp thông tin từ khách hàng, người khai báo được ủy quyền đối với hàng hóa CBAM.
Chuyên gia Nguyễn Tuấn Anh chia sẻ những lưu ý với các doanh nghiệp trong chuyển đổi xanh bền vững
Chia sẻ tại sự kiện “Cơ chế CBAM và hướng dẫn kiểm kê khí nhà kính cho doanh nghiệp sản xuất” do FPT Digital tổ chức, ông Nguyễn Tuấn Anh – chuyên gia tư vấn Chuyển đổi số và dịch vụ chuyển đổi bền vững FPT Digital cho biết: áp dụng CBAM của EU tác động trực tiếp đến 6 ngành công nghiệp tại Việt Nam là xi măng, điện, sắt thép, nhôm, phân bón, hydro và tác động gián tiếp đến hàng chục ngành khác. Cuối năm 2025, CBAM có thể mở rộng phạm vi sang nhiều sản phẩm và dịch vụ hơn khi EU đánh giá về hoạt động của cơ chế này.
Chuyên gia Nguyễn Tuấn Anh cũng nhấn mạnh: các quy định khắt khe của cơ chế CBAM cho thấy mức độ cam kết cao của châu Âu trong việc thực hiện mục tiêu trở thành châu lục đầu tiên trung hoà khí thải vào năm 2050. Bên cạnh đó, có thể các quốc gia khác như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc… tiếp cận, ban hành những chính sách, cơ chế tương tự và mở rộng sang nhiều mặt hàng khác. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam có nhu cầu tham gia thị trường quốc tế cần chủ động thích ứng trước xu hướng mới và có chuẩn bị cần thiết ngay từ bây giờ trong quá trình xây dựng, hoạch định chiến lược sản xuất xanh phù hợp.
Tại Việt Nam, theo thông tin từ ông Vương Xuân Hòa – Phó Viện trưởng Viện Sinh thái và môi trường, nước ta là một trong những quốc gia ở châu Á đặt tham vọng lớn nhất khi cam kết giảm 43% lượng phát thải ròng (so với 2014) vào năm 2030, hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 cũng như đã có những chuyển động chính sách rất mạnh mẽ.
Với các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu, xanh hoá trở thành con đường đưa doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Ngoài ra, trong năm qua, 1.912 cơ sở có phát thải khí nhà kính lớn đã thực hiện trách nhiệm cung cấp thông tin, số liệu hoạt động phục vụ kiểm kê khí nhà kính theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường. Đây được cho là hoạt động cơ bản nhất để bắt đầu hành trình xanh hóa bởi phải nắm được lượng phát thải, doanh nghiệp mới có chính sách phù hợp.
Kiểm kê khí nhà kính cũng là cơ sở để đánh giá nỗ lực của doanh nghiệp trong việc giảm phát thải, làm tiền đề tham gia thị trường carbon sau này. Cùng với đó là làn sóng chuyển dịch dòng vốn xanh. Nhiều doanh nghiệp lớn coi ESG là mục tiêu song hành cùng chiến lược kinh doanh.
CBAM vừa là thách thức vừa là cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam xây dựng nền tảng cốt lõi cho sự phát triển bền vững
Phó Viện trưởng Viện Sinh thái và môi trường nhấn mạnh: doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện các hành động đáp ứng yêu cầu về chính sách, quy định trong tương lai, đồng thời xem xét những việc cần làm trong ngắn và trung hạn ngay để tránh những hậu quả đáng tiếc. Theo chuyên gia, để xây dựng lộ trình giảm phát thải, doanh nghiệp cần lựa chọn xây dựng đội ngũ và hoạt động phù hợp để nâng cao năng lực thực hiện các mục tiêu giảm phát thải, tăng trưởng bền vững; xác định mục tiêu giảm phát phù hợp với chiến lược kinh doanh, hiện trạng và nguồn lực của doanh nghiệp.
Đánh giá về những cơ hội và thách thức từ CBAM, ông Tim Nguyễn – Viện Nghiên cứu Ứng dụng và đổi mới sáng tạo doanh nghiệp cho rằng, CBAM vừa là thách thức (do cơ chế quá mới khiến việc thực hiện còn lúng túng), vừa là cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam thiết lập lại cách thức quản lý, quản trị quy trình, chủ động xây dựng “hệ giá trị văn hóa nội lực”- nền tảng cốt lõi cho sự phát triển bền vững.
Ông Tim Nguyễn cũng kiến nghị các bên cần tăng cường đối thoại, với cơ quan bộ ngành và tổ chức, với chuyên gia và nhà nghiên cứu, với tổ chức quốc tế và các hiệp hội ngành nghề để có cái nhìn tổng thể hơn về CBAM và hiểu rõ hơn về tác động trong các ngữ cảnh cụ thể. Thứ hai, mỗi cá nhân, doanh nghiệp cần hướng đến tư duy chủ động để đặt câu hỏi bởi có hỏi thì mới có câu trả lời; hỏi vì chưa biết, để có khả năng tìm đến cái biết.