Dệt may Việt Nam: Biến khó khăn thành cơ hội phát triển bền vững
Nhiều doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh cho biết không có nhu cầu vay dù được ngân hàng mời chào.
May hàng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản của CTCP may Hưng Việt, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. (Ảnh: Trần Việt/TTXVN)
Ngành Dệt may Việt Nam được dự báo sẽ tiếp tục gặp khó khăn về đơn hàng trong những tháng tới đây. Nhiều đơn hàng xuất khẩu đã chuyển dịch sang thị trường Pakistan hay Ấn Độ trong bối cảnh lợi thế về chi phí không còn thuộc về nước ta.
Tuy vậy, nhiều chuyên gia cho rằng, đây chính là thời điểm “vàng” để doanh nghiệp Việt Nam khắc phục những bất cập cốt lõi đang tồn đọng.
Áp lực từ chi phí đầu vào
Theo thông tin từ Sở Giao dịch Hàng hóa Việt Nam (MXV), từ cuối năm 2022 đến nay, giá bông khá ổn định, chủ yếu giằng co với biên độ nhỏ trong khoảng 1.800-1.900 USD/tấn.
Giá bông giao dịch trên Sở Giao dịch Liên lục địa (ICE) tính đến hết ngày 18/07 ở mức 1.847 USD/tấn, giảm gần 1,5 lần so với mức giá cao gần 2.700 USD/tấn được ghi nhận hồi tháng Tám năm ngoái.
Giá bông ổn định ở mức thấp xuất phát từ cả hai phía cung và cầu trên thị trường. Về phía cung, sản lượng bông dần hồi phục sau những tác động hạn hán tại vùng canh tác bông chính của Mỹ hồi giữa năm 2022.
Trong khi đó, nhu cầu về bông hồi phục không như kỳ vọng của thị trường do kinh tế thế giới diễn biến ảm đạm. Đặc biệt, Trung Quốc, quốc gia nhập khẩu bông lớn nhất thế giới vẫn đang cho thấy tốc độ phục hồi chậm sau khi gỡ bỏ chính sách “Không COVID,” kéo theo hoạt động nhập khẩu bông cũng kém tích cực.
Ông Phạm Quang Anh, Giám đốc Trung tâm Tin tức Hàng hóa Việt Nam, nhận định: “Kinh tế thế giới vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là sự phục hồi không như kỳ vọng của Trung Quốc đang và sẽ tiếp tục là trở ngại lớn trong việc gia tăng nhu cầu đối với mặt hàng bông. Do đó, giá bông có thể duy trì xu thế giằng co trong khoảng thời gian tới.”
Giá bông ổn định vốn là điều tốt đối các quốc gia nhập khẩu bông lớn như Việt Nam. Nhưng vấn đề là giá giảm mạnh đột ngột từ mức cao xuống thấp và không có dấu hiệu hồi phục khiến cho các doanh nghiệp dệt may đã ôm hàng trước đó không kịp trở tay.
Chênh lệch giá như vậy khiến chi phí cho sản xuất hàng dệt may trong nước còn ở mức cao so với các quốc gia khác (quốc gia không bị phụ thuộc lớn vào nguyên liệu đầu vào như chúng ta), gây cản trở đến việc đón nhận các đơn đặt hàng.
May hàng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản của CTCP may Hưng Việt, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. (Ảnh: Trần Việt/TTXVN)
Theo chia sẻ của ông Cao Hữu Hiếu, Tổng Giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex), những khó khăn kéo dài từ quý 3/2022 đến nay, do nhu cầu tiêu dùng thấp, giá giảm sâu do giá bông, nguyên liệu chính của ngành sợi đã giảm rất mạnh.
Khi Trung Quốc chính thức mở cửa trở lại, ngành sợi trong nước cũng khó cạnh tranh về giá. Do vậy, toàn bộ ngành sợi chịu thua lỗ, tồn kho sản xuất ở mức cao.
Ngoài ra, đơn giá giảm rất mạnh, nhiều đơn vị sản xuất có giá gia công giảm tới 50%. Trước kia mỗi chiếc áo sơmi có giá gia công từ 1,7-1,8 USD thì nay giảm chỉ còn một nửa.
Không chỉ nguyên nhân trước mắt là giá nguyên liệu mà sự suy yếu trong xuất khẩu hàng dệt may còn xuất phát từ những yếu tố nội tại của việc sản xuất.
Trước đây, lợi thế thường nhắc đến của ngành dệt may Việt Nam để cạnh tranh với các đối thủ lớn như Bangladesh, Ấn Độ… là lao động dồi dào, nhân công giá rẻ. Với lợi thế đó, dệt may trở thành ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam khi đóng góp trên 10% cho kim ngạch xuất khẩu hàng năm.
Tuy vậy, trong vài năm trở lại đây, cùng với sự phát triển của thị trường lao động, những lợi thế về nhân công giá rẻ của Việt Nam đang dần suy yếu.
Đại diện một doanh nghiệp may mặc lớn trong nước cho biết tiền lương trung bình hàng tháng của công nhân ngành may mặc tại Việt Nam ở mức 300 USD, cao hơn mức trung bình 200 USD/người trên toàn cầu.
Thậm chí, mức lương trong ngành dệt may tại Việt Nam đang cao gấp 3 lần mức lương 95 USD/người/tháng tại Bangladesh hay 145 USD/người/tháng tại Ấn Độ, các quốc gia đang trực tiếp cạnh tranh các đơn hàng may mặc với chúng ta.
Ông Phạm Quang Anh cho rằng tiền lương trong lĩnh vực dệt may tăng trưởng là tín hiệu tốt cho đời sống công nhân, cũng như thể hiện năng lực ngành. Nhưng giá nhân công không rẻ như trước cũng sẽ hạn chế phần nào năng lực cạnh tranh của Việt Nam.
Tuy vậy, về mặt tích cực, đây lại là động lực cho ngành nâng cao công nghệ sản xuất, chất lượng sản phẩm. Điểm sáng là trình độ nhân công được cải thiện.
Điều đó đòi hỏi ngành dệt may Việt Nam cần chuyển đổi đa dạng hơn các lợi thế cạnh tranh khác để nhanh chóng trở lại cuộc đua cung ứng hàng dệt may, không chỉ còn tập trung vào nguồn lao động giá rẻ như trước.
Chuyển mình phát triển bền vững
Để vượt khó, nhiều doanh nghiệp đã phải linh hoạt trong sản xuất các đơn hàng. Họ sẵn sàng làm các đơn hàng nhỏ lẻ, độ phức tạp và yêu cầu cao hơn. Tuy nhiên, để phát triển bền vững, yếu tố quan trọng vẫn phải là chuyển mình cho sự phát triển bền vững hơn.
Theo ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, “xanh hóa” trong sản xuất dệt may có thể giúp doanh nghiệp đáp ứng các yêu cầu của nhà nhập khẩu từ châu Âu, cùng đó là phát triển bền vững doanh nghiệp.
Đây đã không còn là câu chuyện định hướng tương lai mà ngay trong nhiều năm qua, các doanh nghiệp dệt may đã ý thức, chuyển mình để thực hiện yêu cầu này.
May hàng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản của CTCP may Hưng Việt, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. (Ảnh: Trần Việt/TTXVN)
Ngành dệt may sẽ hoạt động theo hướng sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên và giảm chất thải, loại bỏ các chất gây lo ngại và loại trừ phát sinh vi sợi; biến đổi cách thức thiết kế quần áo, bán và sử dụng sao cho có thể giảm thải ra tự nhiên; cải thiện triệt để khả năng tái chế bằng cách thay đổi thiết kế, thu hồi và tái sản xuất; hướng tới sử dụng nguồn nhiên liệu tái tạo.
Thực tế cho thấy, quá trình chuyển đổi “xanh” đã được nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam thực hiện khoảng 5 năm trở lại đây. Tuy tiến trình thực hiện còn tương đối chậm song với động lực tất yếu là cần nâng cao lợi thế cho ngành, trình độ nhân công cải thiện, hiện nay chính là thời điểm tốt nhất để doanh nghiệp trong nước tập trung đẩy mạnh chuyển đổi.
“Chuyển đổi sản xuất để phù hợp nhu cầu thị trường là tất yếu, đi kèm với điều này, vẫn cần cải thiện những yếu tố sẵn có thể thúc đẩy quá trình phát triển. Để đạt được mục tiêu, các doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng đến dự báo về tình hình giá bông trên thế giới để có những chiến lược bảo hiểm giá hợp lý, tăng tính ổn định và bền vững cho ngành công nghiệp xuất khẩu tỷ USD,” ông Quang Anh cho biết thêm.
Như vậy, để ngành dệt may Việt Nam nhanh chóng trở lại đường đua xuất khẩu thì việc chuyển dịch theo hướng sản xuất xanh để đáp ứng nhu cầu mới của thị trường là điều tất yếu.
Bên cạnh đó, việc nâng cao công tác dự báo giá nguyên liệu đầu là chất xúc tác để quá trình chuyển đổi và phát triển của ngành dệt may Việt Nam diễn ra nhanh hơn./.