Báo cáo tình hình đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam

Báo cáo của VCCI phục vụ Buổi gặp mặt của Thường trực Chính phủ gặp gỡ giới doanh nhân Việt Nam năm 2024 nhân kỷ niệm 20 năm Ngày Doanh nhân Việt Nam.

TÌNH HÌNH ĐỘI NGŨ DOANH NHÂN, DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

1. Bối cảnh

Trong 8 tháng đầu năm 2024, kinh tế thế giới tiếp tục phải đối mặt với nhiều thách thức như căng thẳng địa chính trị leo thang, lạm phát cao kéo dài, chính sách tiền tệ thắt chặt, nhiều yếu tố rủi ro, bất định…, gây nên tác động tiêu cực đến tâm lý kinh doanh và tiêu dùng, làm gia tăng lo ngại rủi ro, ảnh hưởng đến nhu cầu và gián tiếp cản trở tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Mặc dù vậy, tình hình chung, các tổ chức quốc tế đều nhận định lạc quan về tăng trưởng toàn cầu năm 2024. Ngân hàng Thế giới (WB) đã dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2024 đạt 2,6% (tăng 0,2% so với dự báo tháng 01/2024); Liên Hợp Quốc (UN) nhận định nền kinh tế thế giới đạt mức tăng trưởng 2,7% trong năm 2024 (tăng 0,3% so với dự báo tháng 01/2024); Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2024 đạt 3,1% (tăng 0,2% so với dự báo tháng 02/2024); Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) nhận định nền kinh thế giới đạt mức tăng trưởng 3,2% năm 2024, điều chỉnh tăng 0,1% so với dự báo tháng 01/2024.

Ở trong nước, trong 8 tháng đầu năm 2024, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm; bội chi, nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài trong giới hạn cho phép. Kim ngạch xuất nhập khẩu, xuất khẩu, nhập khẩu 08 tháng tăng lần lượt 16,7%, 15,8% và 17,7% so với cùng kỳ; xuất siêu ước đạt 19,1 tỷ USD. Các động lực tăng trưởng từ phía cung tiếp tục chuyển biến tích cực. Sản xuất nông nghiệp, dịch vụ duy trì đà tăng khá. Sản xuất công nghiệp phục hồi nhanh, trở lại là động lực quan trọng, dẫn dắt cho tăng trưởng chung của nền kinh tế; chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 8 tăng 9,5% so với cùng kỳ, 08 tháng tăng 8,6%, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,7%. Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) tháng 8 đạt 52,4 điểm, là tháng thứ năm liên tiếp trên 50 điểm, cho thấy sản xuất công nghiệp đã phục hồi rõ nét. Các động lực tăng trưởng từ phía cầu phục hồi tích cực hơn. Thu hút FDI tiếp tục là điểm sáng, tổng vốn FDI đăng ký 08 tháng khoảng 20,5 tỷ USD, tăng 7,0% so với cùng kỳ, trong đó FDI đăng ký mới gần 12 tỷ USD, tăng 27%; vốn FDI thực hiện khoảng 14,15 tỷ USD, tăng 8,0%. Công tác hoàn thiện thể chế, pháp luật được thực hiện khẩn trương, quyết liệt với tinh thần cải cách, đổi mới, đột phá trong tư duy, cách nghĩ, cách làm, phân cấp, phân quyền được đẩy mạnh. Trong 8 tháng, đã thực hiện miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất gần 90 nghìn tỷ đồng, dự kiến cả năm khoảng 187 nghìn tỷ đồng. Bên cạnh các kết quả tích cực trên, tình hình kinh tế – xã hội trong 8 tháng đầu năm 2024 cũng còn nhiều vấn đề tạo khó khăn, thách thức cho sự phát triển của các doanh nghiệp. Khu vực nông nghiệp, dịch vụ, du lịch đối mặt với chi phí sản xuất tăng cao; tình hình bão lũ, mưa lớn phức tạp, kéo dài, nhất là ở khu vực phía Bắc đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp. Riêng cơn bão Yagi đã tác động nghiêm trọng đến toàn bộ người dân và doanh nghiệp các tỉnh phía Bắc, ước tính gây thiệt hại khoảng 81.500 tỷ đồng, có thể làm giảm GDP cả nước năm 2024 đến 0,15%-0,2% so với kịch bản đã đề ra.

Trong bối cảnh đó, để kịp thời tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, Chính phủ đã triển khai nhiều nhiệm vụ, giải pháp nhằm kích cầu tiêu dùng, hỗ trợ sản xuất, kinh doanh và phát triển thị trường trong nước, trong đó, tiếp tục đẩy mạnh triển khai các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đơn giản hóa quy trình đầu tư và thủ tục hành chính để tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp.

2. Môi trường đầu tư kinh doanh ở Việt Nam

Môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam đã có sự cải thiện liên tục trong những năm gần đây. Điều tra của VCCI cho thấy các doanh nghiệp đánh giá công tác hỗ trợ doanh nghiệp đã có nhiều chuyển biến tích cực, việc tiếp cận thông tin, chính sách thuận lợi hơn, chi phí không chính thức tiếp tục chiều hướng giảm, cải cách thủ tục hành chính phát huy hiệu quả, trong đó có việc đẩy mạnh tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính trực tuyến góp phần đáng kể tiết giảm thời gian, chi phí cho các doanh nghiệp.[1]

2.1. Tình hình cải cách thể chế, pháp luật kinh doanh

Góp phần quan trọng cho sự cải thiện mức độ thuận lợi của môi trường kinh doanh Việt Nam thời gian qua, là việc Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã tích cực thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật, đặc biệt là các chính sách lớn, tác động trực tiếp đến môi trường đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp. Từ cuối năm 2023, việc xây dựng, ban hành các luật lớn, quan trọng tác động đến môi trường đầu tư kinh doanh như Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Đấu thầu,… cũng như hoàn thiện các văn bản hướng dẫn đã góp phần tháo gỡ những điểm vướng, tạo tính đồng bộ, thống nhất và thúc đẩy hoạt động đầu tư. Trong năm 2024, những luật lớn liên quan đến tài chính như Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, cũng đang được xem xét sửa đổi với nhiều chế định sửa đổi quan trọng[2]. Đặc biệt là việc soạn thảo hai dự án Luật sửa đổi các luật lớn[3] để khắc phục những điểm vướng, khai thông các dự án đầu tư và tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi hơn. Thủ tướng Chính phủ cũng thành lập Ban chỉ đạo rà soát, xử lý vướng mắc trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) để nhận diện, xử lý các điểm vướng, bất cập của các quy định về kinh doanh. Ban Chỉ đạo đã tiến hành rà soát, tổng hợp vướng mắc từ nhiều ngành, lĩnh vực và kiến nghị sửa đổi nhiều chế định lớn. Các kiến nghị của Ban Chỉ đạo được cân nhắc, xem xét để xây dựng hai luật sửa đổi, bổ sung các luật nói trên.

2.2. Cảm nhận, đánh giá của doanh nghiệp về các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật thời gian qua.

Những chính sách mới ban hành hay đang soạn thảo nhận được sự quan tâm và kỳ vọng rất lớn của cộng đồng kinh doanh. Các doanh nghiệp, hiệp hội đã tham gia rất tích cực vào hoạt động xây dựng chính sách và pháp luật. Riêng trong 09 tháng đầu năm 2024, VCCI đã có 120 văn bản góp ý[4], trong đó có các góp ý đối với những luật quan trọng.[5] VCCI cũng tích cực tham gia hơn 28 cuộc họp thẩm định, thẩm tra các văn bản pháp luật quan trọng tại Bộ Tư pháp, tại các Ủy ban của Quốc hội, các cuộc họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và hơn 139 cuộc họp, hội thảo, hội nghị tại các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ để trao đổi, góp ý về các vấn đề về chính sách, pháp luật. Để tạo diễn đàn thảo luận cho các doanh nghiệp, hiệp hội về các chính sách, pháp luật, từ đầu năm đến nay, VCCI đã phối hợp với các cơ quan chủ trì soạn thảo, các Ủy ban của Quốc hội tổ chức 13 hội thảo, tọa đàm góp ý hoàn thiện đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có những Luật quan trọng như Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật Điện lực, Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, Luật Khoáng sản… Những góp ý từ phía doanh nghiệp, hiệp hội đóng vai trò quan trọng và cung cấp nhiều thông tin thực tiễn để các cơ quan soạn thảo nghiên cứu, cân nhắc.

Từ đầu năm đến nay, cộng đồng doanh nghiệp cảm nhận được những chuyển động chính sách rất tích cực từ các cơ quan soạn thảo. Nhà nước đã có những nỗ lực trong việc sửa đổi, bổ sung những quy định gây vướng, không còn phù hợp với thực tế. Các hoạt động cải cách thủ tục hành chính cũng được thúc đẩy đối với những quy định hiện hành và kiểm soát trong các văn bản soạn thảo mới. Mặc dù vậy, bên cạnh những nỗ lực rất đáng hoan nghênh này, cộng đồng kinh doanh kỳ vọng hơn nữa về mức độ cải cách và giải quyết các điểm vướng mắc, bất cập của quy định pháp luật.

2.3. Tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong tình hình mới

Cách đây 1 năm, ngày 10/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới, thay thế cho Nghị quyết số 09-NQ/TW. Với nhiều điểm mới, Nghị quyết số 41-NQ/TW được cộng đồng doanh nghiệp, đội ngũ doanh nhân hồ hởi đón nhận như một món quà đặc biệt nhân dịp Ngày Doanh nhân Việt Nam 13/10 năm 2023. Nghị quyết 41-NQ/TW đã nhấn mạnh quan điểm « đội ngũ doanh nhân có vị trí, vai trò quan trọng, là một trong những lực lượng nòng cốt góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế; xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ, bảo đảm quốc phòng, an ninh”. Nghị quyết 41-NQ/TW có những quan điểm và giải pháp mới rất quan trọng như cần tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, an toàn, bình đẳng để doanh nhân phát triển và cống hiến; bổ sung chế tài kinh tế phù hợp để xử lý vi phạm, không hình sự hóa quan hệ kinh tế….

Để triển khai thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW, ngày 10/5/2024, Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tổ chức Hội nghị quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết 41/NQ-TW bằng hình thức trực tiếp và trực tuyến đến hơn 4.000 điểm cầu trên toàn quốc với sự tham gia của gần 207 nghìn đại biểu. Hội nghị có đại diện lãnh đạo các ban, bộ, ngành liên quan ở Trung ương và các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương, các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức, cán bộ, đảng viên và đội ngũ doanh nhân.

Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 66/NQ-CP, ngày 9/5/2023, về chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW. Nghị quyết 66/NQ-CP đã đề ra nhiều mục tiêu quan trọng về phát triển doanh nhân, doanh nghiêp như: đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp; đến năm 2045 hình thành và phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam có quy mô, năng lực và trình độ đáp ứng mục tiêu quốc gia phát triển, thu nhập cao, có vị thế, uy tín trong khu vực và quốc tế… Để thực hiện các mục tiêu này, Nghị quyết đã đề ra 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu và chỉ đạo các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các tổ chức và cá nhân có liên quan tổ chức triển khai thực hiện.

VCCI đã ban hành Chương trình hành động số 08-Ctr/ĐĐ, ngày 09/05/2024, về thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW. VCCI cũng đã phối hợp với ban cán sự đảng, đảng đoàn, các tỉnh uỷ, thành uỷ tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Theo thống kê sơ bộ của VCCI và Ban Kinh tế trung ương, đến nay đã có 55/63 tỉnh/thành ủy, 22 ban bộ ngành trung ương và các tổ chức chính trị xã hội ban hành chương trình hành động, kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW. Trong thời gian tới, VCCI sẽ tích cực phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương để thường xuyên theo dõi, đôn đốc, giám sát, kiểm tra, định kỳ sơ kết, tổng kết, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư kết quả thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW. VCCI cũng sẽ chủ động phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư theo dõi, đôn đốc, đánh giá sơ kết, tổng kết tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết 66/NQ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW.

3. Tình hình đội ngũ doanh nhân, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam

3.1 Tình hình phát triển doanh nghiệp

Doanh nghiệp thành lập mới: Theo số liệu của Cục Quản lý Đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động trong 8 tháng đầu năm 2024 là 168.076 doanh nghiệp, bình quân một tháng có thêm 21.000 doanh nghiệp. Trong đó, số doanh nghiệp thành lập mới 8 tháng đầu năm 2024 là 110.764 doanh nghiệp, tăng 4,4% cùng kỳ năm 2023; số vốn đăng ký của doanh nghiệp thành lập mới là 994.686 tỷ đồng, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm 2023; số lao động đăng ký của doanh nghiệp thành lập mới là 672.439 lao động, giảm 1,9% so với cùng kỳ năm 2023. Với tốc độ tăng của như hiện nay, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới năm 2024 sẽ tiếp tục cao hơn con số 159 nghìn của năm 2023 và là năm thứ ba liên tiếp lập kỷ lục về số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới. Nếu không tính ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 vào những năm 2020-2021, thì số doanh nghiệp thành lập mới đã luôn tăng từ năm 2015 đến nay. Như vậy, tính luỹ kế kể từ năm 2000 đến hết năm 2024, số doanh nghiệp thành lập mới sẽ vượt con số 2,1 triệu doanh nghiệp.

Doanh nghiệp quay trở lại hoạt động: Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động 8 tháng đầu năm đạt 57.312 doanh nghiệp. Trung bình mỗi tháng trong 8 tháng đầu năm 2024 có 7.164 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động. Đây là tín hiệu hồi phục tích cực cho thấy các chính sách của Chính phủ, các chỉ đạo quyết liệt tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các lĩnh vực, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đang dần phát huy hiệu quả, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, củng cố niềm tin cũng như cơ hội cho cộng đồng doanh nghiệp.

Doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường: Trong 8 tháng năm 2024 có 135.267 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường[6]. Trong đó, phần lớn là các doanh nghiệp lựa chọn hình thức tạm ngừng kinh doanh trong ngắn hạn (82.826 DN, chiếm 61,2%). Số doanh nghiệp ngừng kinh doanh, chờ làm thủ tục giải thể trong 8 tháng đầu năm 2024 là 38.680 doanh nghiệp, tập trung chủ yếu ở quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng với 34.546 doanh nghiệp (chiếm 89,3%). Số doanh nghiệp giải thể trong 8 tháng đầu năm 2024 là 13.761 doanh nghiệp, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2023. Phần lớn doanh nghiệp giải thể trong 8 tháng năm 2024 có thời gian hoạt động ngắn (dưới 5 năm) với 9.278 doanh nghiệp (chiếm 67,4%) và tập trung chủ yếu ở quy mô vốn từ 0 – 10 tỷ đồng với 12.092 doanh nghiệp (chiếm 87,9%, tăng 20,6% so với cùng kỳ năm 2023). Như vây, mặc dù số lượng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường thấp hơn so với số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập trường (ít hơn gần 33 nghìn doanh nghiệp), nhưng con số này vẫn có xu hướng tăng lên, cho thấy các doanh nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Đáng chú ý, trong giai đoạn 2020-2023, số doanh nghiệp rút khỏi thị trường đã liên tục tăng cao đạt con số kỷ lục lên 172.578 DN năm 2023, bằng 79,27% so với số doanh nghiệp gia nhập thị trường trong năm.

Quy mô vốn đăng ký của doanh nghiệp: Tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 8 tháng đầu năm 2024 đạt 2.014.006 tỷ đồng (giảm 5,1% so với cùng kỳ năm 2023). Quy mô vốn đăng ký bình quân/một doanh nghiệp đạt gần 9 tỷ đồng, giảm 3,6% so với cùng kỳ năm 2023 và thấp hơn mức bình quân của giai đoạn 8 tháng đầu năm trong 5 năm 2019-2023 (12,2 tỷ đồng). Chỉ tiêu này hai năm gần đây giảm lần lượt từ 15 tỷ đồng về dưới 10 tỷ đồng và 8 tháng đầu năm 2024 ghi nhận mức giảm về dưới 9 tỷ đồng, phản ánh tâm lý thận trọng hơn về kế hoạch đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, doanh nghiệp thành lập mới đa phần có quy mô nhỏ (từ 0 – 10 tỷ đồng) với 102.575 doanh nghiệp (chiếm 92,6%, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2023).

Doanh nghiệp thành lập mới theo ngành kinh tế: Doanh nghiệp thành lập mới trong 8 tháng đầu năm 2024 chủ yếu thuộc nhóm ngành Dịch vụ với 83.980 doanh nghiệp, chiếm 75,82%, tăng 5,53% so với năm ngoái, thể hiện sự phục hồi mạnh ở khu vực dịch vụ. Nhóm ngành Công nghiệp và Xây dựng có 25.694 doanh nghiệp gia nhập thị trường, chiếm 23,2% tổng số doanh nghiệp thành lập mới, tăng 1,39% so với cùng kỳ năm 2023. Khu vực Nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản ghi nhận 1.090 doanh nghiệp thành lập mới, chiếm 0,98% tổng số doanh nghiệp thành lập mới, giảm 3,17% so với cùng kỳ năm trước.

Doanh nghiệp thành lập mới theo vùng: Các doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tập trung chủ yếu ở Đông Nam Bộ (47.570 doanh nghiệp, chiếm 42,9%) và Đồng bằng Sông Hồng (33.892 doanh nghiệp, chiếm 30,6%). Các trung tâm kinh tế lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai, Bắc Ninh, Hải Phòng… là những địa phương thu hút nhiều doanh nghiệp thành lập mới nhất. Đây cũng là những cái tên hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài nhất tại Việt Nam, nằm trong top 8 địa phương trên cả nước thu hút vốn FDI đạt trên 1 tỷ USD trong 7 tháng đầu năm 2024[7].

3.2 Tình hình xây dựng các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp dân tộc

Mặc dù đã có trên 930 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động, tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chủ yếu là các doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa (chiếm đến 98%) và chỉ có khoảng 2% các doanh nghiệp lớn. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy nhóm các doanh nghiệp lớn có vai trò quan trọng, là nòng cốt dẫn dắt sự phát triển của các ngành và cả nền kinh tế. Chính vì vậy, bên cạnh mục tiêu phát triển 2 triệu doanh nghiệp đến năm 2030, đại hội XIII của Đảng cũng khẳng định “Khuyến khích hình thành, phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế”. Nghị quyết 41-NQ/TW cũng đề ra nhiệm vụ phải “phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh ngang tầm mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong thời kỳ mới, xây dựng đội ngũ doanh nhân dân tộc”.

Để thực hiện nhiệm vụ này, Nghị quyết 66/NQ-CP đã giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẩn trương hoàn thiện Đề án “Xây dựng cơ chế, chính sách hình thành và phát triển doanh nghiệp dân tộc nhằm phát huy vai trò tiên phong trong một số ngành, lĩnh vực mới nổi, có lợi thế cạnh tranh nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ” để hình thành lực lượng doanh nghiệp dân tộc có vị thế quan trọng trong chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu, làm chủ một số chuỗi giá trị công nghiệp, nông nghiệp; trình Thủ tướng Chính phủ trong năm 2024.

Năm 2023, VCCI cũng đã thành lập Hội đồng doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam gồm 21 thành viên ban đầu là đại diện các doanh nghiệp đầu ngành Việt Nam như Thaco, FPT, BIDV, BRG, Geleximco, VNPT, Tập đoàn TH, Tập đoàn Phú Thái, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam, PNJ, CMC, Tổng công ty Kinh Bắc, Tập đoàn Doji, Tập đoàn Lộc Trời,… Hội đồng có chức năng tập hợp, liên kết, thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp lớn, đầu ngành Việt Nam, mở rộng mối quan hệ hợp tác trong nước và quốc tế, phát huy vai trò của các doanh nghiệp đầu ngành trong phát triển các ngành, các địa phương, dẫn dắt các doanh nghiệp trong ngành, tham gia phát triển cộng đồng doanh nghiệp và góp phần xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ, hội nhập quốc tế và phát triển bền vững. Nhiệm vụ của Hội đồng là nghiên cứu, đề xuất các chính sách mới, mang tính đột phá để hình thành, phát triển lực lượng doanh nghiệp dân tộc hàng đầu quy mô lớn, có vai trò dẫn dắt một số ngành, lĩnh vực then chốt, trọng yếu, có vị thế quan trọng trong chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu, làm chủ một số chuỗi giá trị công nghiệp, nông nghiệp và cộng đồng doanh nghiệp nói chung; Tập hợp, kết nối, hỗ trợ các doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam phát triển vững mạnh thông qua các hoạt động truyền thông, xúc tiến thương mại và đầu tư, chia sẻ kinh nghiệm kiến tạo chuỗi giá trị, nghiên cứu và phát triển, kết nối hợp tác với doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng; Nghiên cứu, đề xuất và triển khai các hoạt động dẫn dắt, hỗ trợ chuỗi cung ứng ngành và các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành. Đặc biệt, Hội đồng sẽ thực hiện vai trò tham vấn cho lãnh đạo Đảng, Nhà nước về xây dựng môi trường đầu tư – kinh doanh thuận lợi, an toàn cho doanh nghiệp; đề xuất các giải pháp và chính sách phát triển các ngành kinh tế, lĩnh vực trọng điểm quốc gia nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, hội nhập quốc tế.

Hiện nay ở nước ta đã xuất hiện các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và các doanh nghiệp tư nhân lớn, tích lũy đủ năng lực về quy mô vốn, trình độ công nghệ và quản trị doanh nghiệp, có thương hiệu vươn ra thị trường khu vực và thế giới, trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế như: Viettel, PVN, Tập đoàn Vingroup, FPT, Thaco, Hòa Phát, TH,… Nhiều doanh nghiệp đã vươn lên làm chủ công nghệ, đi đầu trong đổi mới sáng tạo, có thương hiệu, tạo dựng được hệ sinh thái cho các DNNVV cùng phát triển, tiên phong trong chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, tham gia giải quyết các thách thức, bài toán lớn của quốc gia, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Yêu cầu đặt ra là cần sớm có cơ chế, chính sách đột phá tạo điều kiện xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ doanh nghiệp dân tộc và các doanh nghiệp lớn, đầu ngành của Việt Nam.

3.3 Tình hình xây dựng đạo đức, văn hoá kinh doanh, phát huy tinh thần dân tộc, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc

Để có được đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, tương xứng với một quốc gia phát triển vào năm 2045, thì cần xây dựng đội ngũ doanh nhân không chỉ đông và giỏi về năng lực lãnh đạo điều hành mà còn phải có đạo đức kinh doanh. Chính vì vậy, Nghị quyết 41-NQ/TW đã đề ra nhiệm vụ “Xây dựng đạo đức, văn hoá kinh doanh, phát huy tinh thần dân tộc, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, lâu dài trong xây dựng đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam.

Thực hiện nhiệm vụ này, VCCI đã tiên phong thúc đẩy xây dựng đạo đức doanh nhân và văn hoá kinh doanh Việt Nam. Để xây dựng đạo đức, văn hóa kinh doanh và thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, VCCI đã công bố và phát động thực hiện 6 Quy tắc Đạo đức Doanh nhân Việt Nam, đồng thời tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền, vận động doanh nghiệp, doanh nhân thực hành 6 quy tắc đạo đức doanh nhân Việt Nam như: tổ chức Cuộc thi viết phóng sự, ký sự báo chí “Câu chuyện văn hoá doanh nhân”, lồng ghép nội dung “đạo đức doanh nhân và hóa kinh doanh” vào các diễn đàn, tọa đàm do VCCI tổ chức, thực hiện các đợt truyền thông về chủ đề “đạo đức doanh nhân” trên các trang web của VCCI, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp và các phương tiện truyền thông khác. VCCI đã tập trung nguồn lực triển khai quyết liệt Đề án “Thúc đẩy xây dựng văn hóa kinh doanh Việt Nam giai đoạn 2021-2026”; phối hợp với Hội Nhạc sĩ Việt Nam phát động Cuộc thi sáng tác ca khúc “Hào khí doanh nhân Việt Nam” và công bố bài hát truyền thống của giới doanh nhân Việt Nam nhân Ngày Doanh nhân Việt Nam 13/10/2023, tổ chức Diễn đàn “Tư tưởng Hồ Chí Minh với văn hóa kinh doanh”; …

Với phương châm lấy đạo đức, văn hoá kinh doanh làm cốt lõi, đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật, các hoạt động trên của VCCI đã góp phần xây dựng đạo đức doanh nhân, văn hoá kinh doanh Việt Nam. Các doanh nhân, doanh nghiệp đã không chỉ quan tâm giữ uy tín về chất lượng, thương hiệu sản phẩm, doanh nghiệp mà còn tích cực thực hiện trách nhiệm xã hội, tham gia tích cực các hoạt động giúp đỡ cho người có hoàn cảnh khó khăn, địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Đặc biệt là thời gian qua, dù còn gặp nhiều khó khăn từ đại dịch Covid-19, lại chịu ảnh hưởng từ siêu bão Yagi, nhưng nhiều doanh nghiệp trong cả nước đã chung tay cứu trợ đồng bào bị bão lũ. Theo ghi nhận của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong danh sách những tổ chức ủng hộ đồng bào bị ảnh hưởng bởi bão Yagi, có rất nhiều doanh nghiệp tham gia ủng hộ, từ các tập đoàn lớn đến các doanh nghiệp nhỏ và vừa, với số tiền đóng góp của mỗi doanh nghiệp lên đến nhiều tỷ đồng, tiêu biểu có thể kể đến các doanh nghiệp lớn như: Tập đoàn Vingroup, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam, THACO, Tập đoàn Công nghệ CMC,… và nhiều doanh nghiệp khác.

3.4 Tình hình liên kết, hợp tác giữa doanh nhân, doanh nghiệp và các hiệp hội doanh nghiệp

Theo thống kê sơ bộ, hiện nay trong cả nước có khoảng 800 Hiệp hội doanh nghiệp, Hiệp hội doanh nhân, 100% địa phương có Hội hội doanh nghiệp cấp tỉnh, 53/63 địa phương có hiệp hội doanh nghiệp có tên gọi và giữ vai trò đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp của địa phương. Hầu hết các doanh nghiệp đang hoạt động đều tham gia một hoặc một số tổ chức hội doanh nghiệp, qua đó tạo ra mạng lưới liên kết giữa các doanh nghiệp. Tại nhiều địa phương, có rất nhiều mô hình Hội qui mô cấp huyện hoặc cấp xã, được thành lập độc lập hoặc giữ vai trò dạng Chi hội của Hiệp hội doanh nghiệp qui mô cấp tỉnh, qua đó tạo nên mạng lưới khá hoàn chỉnh về tổ chức đại diện doanh nghiệp Việt Nam trên phạm vi cả nước.

Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đến việc phát triển đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân, hướng tới việc củng cố và phát huy vai trò của các tổ chức đại diện, các hiệp hội doanh nghiệp. Nghị quyết 41-NQ/TW đã đưa ra nhiệm vụ “phát huy vai trò của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các tổ chức đại diện đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp”. Các chương trình hành động cụ thể được các địa phương phối hợp với Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh hoặc tương đương ban hành và đi vào thực tiễn.

Hiện thực hóa các định hướng lớn về phát triển kinh tế theo Nghị quyết Đại hội XIII về thúc đẩy kinh tế vùng, hình thành và phát triển các doanh nghiệp dân tộc, các doanh nghiệp lớn có tính dẫn dắt, VCCI đã chủ động xây dựng, thúc đẩy liên kết các doanh nghiệp đầu ngành và liên kết doanh nghiệp theo vùng kinh tế, cụ thể như: thành lập Hội đồng Doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam, Hội đồng Doanh nghiệp tiểu vùng trục cao tốc phía Đông (gồm 4 tỉnh, thành: Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên), Hội đồng các hiệp hội doanh nghiệp khu vực ĐBSCL (gồm 13 tỉnh, thành phố ĐBSCL). Năm 2023, VCCI đã tổ chức Hội nghị toàn quốc các hiệp hội doanh nghiệp và giới doanh nhân Việt Nam. Đây là lần đầu tiên hội nghị được tổ chức và sẽ trở thành hoạt động thường niên nhằm tăng cường, thúc đẩy sự liên kết, hợp tác giữa các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp tại Việt Nam.

Bên cạnh thúc đẩy liên kết cộng đồng doanh nghiệp trong nước, VCCI và các HHDN ngày càng chủ động trong liên kết, hợp tác với cộng đồng doanh nghiệp quốc tế, tham gia các tổ chức kết nối doanh nghiệp theo chuỗi giá trị, theo khu vực. VCCI có quan hệ với trên 180 tổ chức xúc tiến và phòng thương mại quốc tế, là thành viên tích cực của các cơ chế, tổ chức liên kết kinh tế quốc tế và khu vực như Hội đồng tư vấn kinh doanh APEC, Hội đồng tư vấn kinh doanh ASEAN, Hội đồng Kinh doanh Đông Á (EABC), Hội đồng Kinh doanh Tiểu vùng sông Mekong (GMS BC), Phòng Thương mại Quốc tế (ICC), Phòng Thương mại ASEAN (ASEAN CCI), Phòng Thương mại Châu Á Thái Bình Dương (CACCI),… qua đó nắm bắt xu hướng hợp tác quốc tế, bảo vệ lợi ích và hỗ trợ doanh nghiệp trong nước trực tiếp tham gia các cơ chế hợp tác, từng bước nâng cao tầm ảnh hưởng của doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế.

4. Cơ hội, thách thức đối với sự phát triển của đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam và một số đề xuất, kiến nghị

4.1 Kết quả phát triển đất nước và doanh nghiệp 20 năm qua

Sau gần 40 năm thực hiện công cuộc Đổi mới, Việt Nam từ một nền kinh tế lạc hậu đã vươn lên lọt vào Top 40 nền kinh tế hàng đầu, có quy mô thương mại trong Top 20 quốc gia trên thế giới, là mắt xích quan trọng trong 16 hiệp định thương mại tự do gắn kết với 60 nền kinh tế chủ chốt ở khu vực và toàn cầu. Quy mô nền kinh tế từ 26,3 tỷ USD trong những năm đầu Đổi mới tăng lên hơn 430 tỷ USD vào năm 2023. Việt Nam được Liên hợp quốc và bạn bè quốc tế xem như một câu chuyện thành công, một điểm sáng về xóa đói giảm nghèo, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân.

Nếu so với thời điểm 20 năm trước đây, năm 2004, năm ra đời Ngày Doanh nhân Việt Nam (13/10/2004 – 13/10/2024), thì GDP Việt Nam đã tăng khoảng 9,5 lần, từ mức 45,4 tỷ USD năm 2004 lên khoảng 430 tỷ USD năm 2023. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng gần 12 lần, từ mức 57,5 tỷ USD năm 2004 lên 683 tỷ USD năm 2023. Trong đó, riêng kim ngạch xuất khẩu tăng gần 13,7 lần, từ mức hơn 26 tỷ USD năm 2004 lên mức 355,5 tỷ USD năm 2023.

Sau 20 năm kể từ khi có Ngày Doanh nhân Việt Nam, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ. Nếu chỉ tính số doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả kinh doanh, thì trong giai đoạn 2004-2022, số doanh nghiệp đã tăng 8 lần, từ 91.755 DN lên 735.455 DN. Còn nếu so với số doanh nghiệp đang hoạt động thì đến 31/12/2023, sau 20 năm ra đời Ngày Doanh nhân Việt Nam, số lượng doanh nghiệp đã tăng hơn 10 lần, đạt 921,372 nghìn DN. Mật độ doanh nghiệp đang hoạt động đã tăng khoảng 8,4 lần, từ 1,1 DN/1000 dân năm 2004 lên 9,2 DN/1000 dân năm 2023. Số doanh nghiệp thành lập mới trong vòng 20 năm (2004-2023) đã đạt hơn 1,88 triệu DN, trong đó, số doanh nghiệp thành lập mới năm 2023 tăng khoảng 4,3 lần so với năm 2004. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2011-2023, số doanh nghiệp rút khỏi thị trường cũng khá cao, đạt gần 1,2 triệu lượt doanh nghiệp.

Khu vực doanh nghiệp đang đóng góp khoảng 60% GDP, tạo ra khoảng 30% việc làm cho xã hội. Hơn nữa, đội ngũ doanh nhân, cộng đồng doanh nghiệp không chỉ là làm nhiệm vụ phát triển kinh tế mà còn có đóng góp quan trọng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết 41-NQ/TW, ngày 10/10/2023 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới đã khẳng định: “Đội ngũ doanh nhân có vị trí, vai trò quan trọng, là một trong những lực lượng nòng cốt góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế; xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ, bảo đảm quốc phòng, an ninh”.

Đại hội XIII của Đảng đã đề ra các mục tiêu đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Như vậy là chỉ còn hơn 20 năm nữa, để cả hệ thống chính trị, trong đó có đội ngũ doanh nhân, cùng nỗ lực để phấn đấu đạt được mục tiêu này. Như đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã nói: “Việt Nam đang đứng trước khởi điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc Đổi mới là tiền đề để dân tộc Việt Nam tin tưởng vào tương lai phía trước”, đây chính là lúc cần phải xây dựng và phát huy hơn nữa vai trò và sứ mệnh của đội ngũ doanh nhân, cộng đồng doanh nghiệp để góp phần đưa đất nước sang “kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”.

4.2 Cơ hội và khó khăn, thách thức đối với sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam

Cơ hội: Hiện nay cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước những cơ hội to lớn. Về quốc tế, đó là các doanh nghiệp có cơ hội tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, khi Việt Nam đang dần trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; việc Việt Nam tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do đang mở ra nhiều cơ hội xuất khẩu và hợp tác quốc tế. Xu hướng chuyển đổi xanh và phát triển bền vững trên toàn cầu cũng mở ra nhiều cơ hội mới cho các doanh nghiệp Việt Nam. Ở trong nước, sự ổn định kinh tế vĩ mô, nhu cầu tiêu dùng và tăng trưởng kinh tế từng bước phục hồi dần tạo nền nền tảng vững chắc hơn cho hoạt động của doanh nghiệp. Chính phủ cũng đang nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh thông qua việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như triển khai nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, giảm thiểu gánh nặng thủ tục hành chính và tăng cường minh bạch…

Khó khăn, thách thức: Cộng đồng doanh nghiệp hiện đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong bối cảnh thế giới đầy biến động, thách thức. Những căng thẳng địa-chính trị tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi, tiêu dùng, đầu tư toàn cầu vẫn chưa phục hồi tích cực; hàng rào bảo hộ, phòng vệ thương mại vẫn có dấu hiệu gia tăng. Ở trong nước, khảo sát của VCCI cho thấy vấn đề lớn nhất mà các doanh nghiệp gặp phải là tiếp cận tín dụng[8]. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp còn đang gặp nhiều khó khăn trong thực hiện thủ tục hành chính (TTHC), chất lượng cơ sở hạ tầng, biến động chính sách pháp luật, cũng như thiệt hại do thiên tai, biến đổi khí hậu… Riêng chính sách, pháp luật về kinh doanh của nước ta vẫn tồn tại nhiều điểm vướng mắc, bất cập cản trở hoạt động đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp. Thủ tục hành chính vẫn còn phức tạp, tình trạng phân cấp thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính còn mang tính hình thức[9]; trình tự thủ tục để thực hiện một dự án đầu tư quá dài[10]. Những bất cập này làm giảm cơ hội đầu tư cũng như giảm sự hấp dẫn của môi trường đầu tư ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức do thiên tai, biến đổi khí hậu tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, tác động nghiêm trọng tới hoạt động sản xuất kinh doanh. Gần đây nhất vào tháng 9 vừa qua, miền Bắc nước ta chịu ảnh hưởng nặng nề của cơn bão Yagi. Tài sản của doanh nghiệp, người kinh doanh đã bị thiệt hại nặng nề. Nhiều tài sản có giá trị lớn của không ít doanh nghiệp đã bị hư hỏng như nhà xưởng, tàu thuyền, phương tiện giao thông, máy móc, trang thiết bị, hàng hoá… Việc khôi phục sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp hiện nay gặp rất nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và sinh kế của nhiều người dân, người lao động.

Chính phủ đã có những động thái nhanh chóng hỗ trợ doanh nghiệp bị thiệt hại bởi cơn bão, như việc ban hành Nghị quyết số 143/NQ-CP ngày 17/9/2024 về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để khẩn trương khác phục hậu quả bão số 3 (Yagi), nhanh chóng ổn định tình hình nhân dân, đẩy mạnh khôi phục sản xuất kinh doanh, tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát tốt lạm phát. Cộng đồng kinh doanh rất chờ đợi các giải pháp, nhiệm vụ trong Nghị quyết 143/NQ-CP được triển khai nhanh chóng trong thực tế.

Tinh thần kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay: Với nhiều khó khăn gặp phải trong hoạt động, tinh thần kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục ở mức thấp. Khảo sát doanh nghiệp của VCCI trên quy mô toàn quốc tính tới tháng 9/2024 cho thấy chỉ 32% doanh nghiệp cho biết sẽ mở rộng sản xuất kinh doanh trong 2 năm tiếp theo.[11] Con số này có nhích nhẹ hơn so với mức 27% của năm 2023, song vẫn ở mức thấp thứ 2 trong 18 năm VCCI khảo sát doanh nghiệp. Dù vậy, khảo sát của VCCI cũng cho thấy một số dấu hiệu tích cực, đó là các doanh nghiệp vừa và lớn vẫn còn tỷ lệ đáng kể cho biết sẽ mở rộng sản xuất kinh doanh; nhiều doanh nghiệp trong một số ngành quan trọng của nền kinh tế như công nghiệp chế tạo, nông lâm nghiệp thủy sản… tiếp tục có kế hoạch mở rộng hoạt động.

4.3 Đề xuất, kiến nghị

Để hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp vượt qua khó khăn, thách thức, khơi dậy tinh thần kinh doanh mạnh mẽ, từ đó góp phần thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025, đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2045, cộng đồng doanh nghiệp có một số kiến nghị với Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ như sau.

Về định hướng chung:

Thứ nhất, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách pháp luật để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp. VCCI nhận thấy đây đang là công việc ưu tiên, trọng tâm của Chính phủ trong thời gian vừa qua và cả thời gian tới, thực hiện yêu cầu cải cách thể chế là đột phá chiến lược được đặt ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, thời gian tới VCCI mong rằng sẽ được tiến hành mạnh mẽ hơn nữa.

Thứ hai, trong công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách cần luôn lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâmChính sách phải vì lợi ích của doanh nghiệp, người dân; xây dựng chính sách trên cơ sở luôn lắng nghe ý kiến, tiếng nói của doanh nghiệp và người dân. Việc tham vấn ý kiến doanh nghiệp và người dân sẽ thực hiện tại mọi khâu, mọi giai đoạn trong quá trình xây dựng chính sách và pháp luật.

Thứ ba, cách tiếp cận chính sách sẽ từ tháo gỡ khó khăn sang chủ động tạo thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp. Chúng tôi đề nghị chính sách, pháp luật giai đoạn tới sẽ không chỉ dừng lại ở việc cởi trói, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đang có mà phải theo hướng tạo điều kiện thuận lợi và yểm trợ cho các doanh nghiệp phát triển.

Thứ tư, kiên quyết bảo vệ và nuôi dưỡng các doanh nghiệp làm ăn chân chính. Chúng ta phải bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các doanh nghiệp. Thực hiện tốt chủ trương không hình sự hoá các quan hệ dân sự, kinh tế. Đồng thời triển khai nhiều giải pháp để an lòng doanh nghiệp và động viên doanh nhân, doanh nghiệp cống hiến hết mình cho sự phát triển quốc gia. Xây dựng Việt Nam là một điểm đến an toàn, tin cậy cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Về các kiến nghị trên từng lĩnh vực cụ thể:

Về kiến nghị hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh

(1) Nhanh chóng xây dựng các văn bản sửa đổi, bổ sung các quy định để giải quyết những vướng mắc, bất cập do không phù hợp với thực tiễn của quy định kinh doanh. Các chính sách ban hành cần phù hợp với xu hướng mới, yêu cầu phát triển hiện nay của nền kinh tế.[12]

(2) Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm, đơn giản hóa các quy định kinh doanh. Chú trọng kiểm soát việc ban hành các thủ tục hành chính, rào cản kinh doanh từ khi dự thảo các văn bản pháp luật. Xây dựng kênh tiếp nhận các phản ánh của doanh nghiệp và tăng trách nhiệm giải trình của các cơ quan soạn thảo chính sách nếu không tiếp thu các ý kiến phản ánh.

(3) Rà soát một cách toàn diện về quy trình thực hiện dự án đầu tư để nhận diện các quy trình, thủ tục không còn phù hợp để thực hiện loại bỏ. Nghiên cứu, xem xét cơ chế quản lý theo hướng hậu kiểm, thay vì tiền kiểm ở một số hoạt động để giảm các quy trình, thủ tục, thời gian thực hiện thủ tục của nhà đầu tư.

(4) Triển khai nhanh và toàn diện các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp chịu thiệt hại nặng nề bởi cơn bão Yagi tại Nghị quyết số 143/NQ-CP ngày 17/9/2024 về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để khẩn trương khác phục hậu quả bão số 3. Về vấn đề này, VCCI đã có văn bản trực tiếp đề xuất Thủ tướng Chính phủ các nhóm giải pháp để hỗ trợ doanh nghiệp hiệu quả nhất.

Về các giải pháp quan trọng khác:

(1) Trên cơ sở Nghị quyết 41 của Bộ Chính trị, VCCI kiến nghị cần có một chiến lược quốc gia phát triển đội ngũ doanh nhân gắn với mục tiêu tổng quát, mục tiêu đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, làm cơ sở để các ngành, địa phương xây dựng các chiến lược phát triển đội ngũ doanh nhân cho ngành, địa phương mình.

(2) Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần kinh doanh trong xã hội và trong cộng đồng doanh nhân, doanh nghiệp với khát vọng góp phần đưa nước ta bước sang “kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Yếu tố tinh thần luôn là sức mạnh đặc biệt của cách mạnh Việt Nam và con người Việt Nam, đã giúp nước ta thu được những thành tựu và kết quả to lớn trong lịch sử đấu tranh cách mạng cũng như xây dựng, bảo vệ tổ quốc. Đặc biệt, khí thế, tinh thần kinh doanh sôi động trong thời kỳ đổi mới đã góp phần quan trọng tạo ra sự chuyển đổi, phát triển kinh tế nổi bật của Việt Nam. Cộng đồng doanh nghiệp kiến nghị Đảng, Chính phủ có các giải pháp để khơi dậy tinh thần kinh doanh trong xã hội.

(3) VCCI đặc biệt mong muốn Chính phủ chỉ đạo xây dựng Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng doanh nhân để đào tạo, bồi dưỡng doanh nhân Việt Nam, nhất là các vấn đề mới và quan trọng như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, khởi nghiệp, quản trị kinh doanh hiện đại, đạo đức, văn hóa kinh doanh, cung cấp các kiến thức pháp luật, kinh nghiệm thực tiễn, xu hướng kinh doanh mới… Chương trình đào tạo này chú trọng trang bị kiến thức về hội nhập, các hiệp định thương mại tự do, về các biện pháp phòng vệ thương mại từ sớm, từ xa cho các doanh nghiệp Việt… để doanh nghiệp chủ động hội nhập tốt hơn. Trong chương trình đào tạo này, vai trò của VCCI và các hiệp hội doanh nghiệp cần phải được đẩy mạnh. Nhưng muốn làm tốt thì cần phải có nguồn lực, VCCI mong muốn Chính phủ, các bộ ngành mạnh dạn có cơ chế giao nguồn lực, phối hợp chặt chẽ hơn với VCCI, các hiệp hội doanh nghiệp để triển khai hiệu quả.

(4) Xem xét sớm ban hành văn bản mới thay thế Nghị định 45/2010/NĐ-CP về tổ chức, hoạt động và quản lý hội theo hướng tạo thuận lợi hơn và cởi mở hơn, tạo cơ sở pháp lý mạnh mẽ hơn cho việc ra đời, hoạt động và phát triển của các hội, hiệp hội doanh nghiệp. Điều này rất quan trọng vì nó tăng cường tính liên kết giữa các doanh nghiệp Việt Nam.

(5) Tiếp tục thúc đẩy xã hội hóa dịch vụ công: Cần xây dựng cơ chế chính sách, văn bản pháp luật tạo điều kiện để các VCCI và các hiệp hội doanh nghiệp có đủ năng lực tham gia cung cấp các dịch vụ công. Làm được như vậy vừa đúng với xu hướng nhà nước nhỏ – xã hội lớn, đúng với xu hướng phân cấp, phân quyền mà Thủ tướng Chính phủ luôn đề cao, bộ máy nhà nước vừa giảm được áp lực về kinh phí và nhân lực, vai trò của các hiệp hội vừa được nâng cao, phù hợp với chương trình cải cách hành chính đang được triển khai thực hiện ở nước ta hiện nay. (Điều đáng buồn là hiện tượng một số bộ, ngành đang “ôm” nhiều hoạt động đáng ra khu vực hội, hiệp hội hoàn toàn có thể đảm nhiệm được).

(6) Tạo cơ chế để VCCI cùng với các hiệp hội doanh nghiệp được tham gia đầy đủ, chủ động hơn trong các sự kiện chính trị, kinh tế, các hoạt động ngoại giao song phương và đa phương do Chính phủ, các bộ ngành tổ chức để kịp thời cập nhật thông tin, tăng cường vai trò với các doanh nghiệp hội viên từ đó thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được Đảng và Chính phủ giao./.


[1] VCCI (2024) Báo cáo Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và Chỉ số Xanh cấp tỉnh.

[2] Như hoàn thuế GTGT, các chi phí được khấu trừ khi tính thuế TNDN, hạn mức được ưu đãi thuế TNDN; khấu trừ và hoàn thuế tiêu thụ đặc biệt; sửa đổi thuế suất của một số mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt…

[3] Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán độc lập, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Quản lý thuế, Luật Dự trữ quốc gia và Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư và Luật Đấu thầu.

[4] Gồm 13 Luật, Đề nghị xây dựng Luật, 04 Nghị quyết của Quốc hội, 35 Nghị định, 07 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 16 Thông tư và các văn bản khác.

[5] Như Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt; Luật Thuế giá trị gia tăng; Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt; Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư và Luật Đấu thầu; Luật Hóa chất…

[6] Do từ tháng 8/2024 bắng đầu thực hiện chu kỳ đánh giá mới nên không so sánh được số liệu này với năm trước. Còn nếu tính 7 tháng đầu năm 2024, có 125.456 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, tăng 10,7% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó có 78.002 DN tạm ngừng kinh doanh (tăng 16,7%), 35.531 DN đóng cửa chờ làm thủ tục giải thể (giảm 1,5%) và 11.923 DN giải thể (tăng 14,5%).

[8] Cụ thể, Khảo sát doanh nghiệp của VCCI cho thấy 57% doanh nghiệp gặp khó khăn về tiếp cận tín dụng, kế đến là 49% gặp khó khăn về tìm kiếm khách hàng, và 35% gặp khó khăn về biến động thị trường.

[9] Điều này khiến các doanh nghiệp không nhận thấy thuận lợi hơn nếu so sánh với thủ tục trước khi phân cấp. Trong nhiều trường hợp phân cấp thẩm quyền giải quyết TTHC ở cấp trung ương. Ví dụ: phân cấp từ Bộ trưởng xuống Cục trưởng cấp giấy phép, nhưng không sửa đổi về thời gian giải quyết thủ tục, khiến cho thủ tục sau khi phân cấp, về cơ bản là không thuận lợi hơn nếu nhìn từ góc độ đối tượng phải thực hiện thủ tục. Điều này cũng làm giảm ý nghĩa của hoạt động phân cấp thẩm quyền – khi giảm các tầng nấc giải quyết thủ tục hành chính, đơn giản các bước thủ tục, rút ngắn được thời gian thực hiện.

[10] Thậm chí có thể kéo dài đến gần một năm, với nhiều thủ tục phức tạp, thực hiện ở nhiều cơ quan khác nhau. Có những quy định pháp luật liên quan đến quy trình này chưa thực sự đủ rõ ràng, khiến cho việc áp dụng trở nên thiếu thống nhất giữa các địa phương. Theo kết quả rà soát hệ thống pháp luật tại Báo cáo số 332/BC-BTP ngày 13/8/2024 của Bộ Tư pháp, để thực hiện được quy trình, thủ tục cho một dự án đầu tư có sử dụng đất, nhà đầu tư phải trải qua khoảng 40 bước thủ tục và mất khoảng 310 ngày để kết thúc chuỗi thủ tục trên.

[11] Có nhích nhẹ hơn so với con số 27% của năm 2023 – con số thấp nhất kể từ VCCI thu thập thông tin này từ năm 2006.

[12] Ví dụ, cần sớm hoàn thiện quy định về phát triển điện mặt trời mái nhà theo hướng tập trung cho các khu công nghiệp, nhà xưởng, vì đây là đơn vị cần giảm phát thải để xuất hàng đi các nước phát triển. Cần cho phép mô hình hợp tác giữa doanh nghiệp chuyên về điện mặt trời và doanh nghiệp có nhà xưởng. Hai bên ký hợp đồng, bên chuyên về điện mặt trời sẽ đầu tư, lắp đặt tấm pin mặt trời trên mái, rồi bán điện trực tiếp cho doanh nghiệp sản xuất tại nhà xưởng vì: doanh nghiệp sản xuất thì không muốn tự đầu tư lắp pin mặt trời vì không có tiền, không có chuyên môn vận hành, bảo dưỡng; doanh nghiệp cung cấp dịch vụ về điện mặt trời có khả năng huy động vốn để làm và có chuyên môn vận hành, bảo dưỡng).

Theo Tạp Chí Diễn Đàn Doanh Nghiệp