Bức tranh kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2023
Theo tính toán của Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV, dự báo tăng trưởng GDP cả năm 2023 (kịch bản cơ sở) ở mức khoảng 5-5,5% (thấp hơn so với dự báo 5,5-6% hồi tháng 3), trong đó tăng trưởng quý 3 có thể đạt 7-7,2% và quý 4 đạt 6,8-7%.
LTS: TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV vừa công bố đánh giá nhanh về bức tranh kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2023. Chúng tôi đăng tải nguyên văn báo cáo để độc giả tiện theo dõi.
——–
Bối cảnh kinh tế thế giới năm 2023
Trong 6 tháng đầu năm, kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi, song còn nhiều khó khăn, thách thức, phục hồi không đồng đều giữa các nền kinh tế và các lĩnh vực (lĩnh vực dịch vụ tăng trưởng tốt, trong khi hoạt động sản xuất phục hồi chậm, thậm chí suy giảm). Lạm phát tại hầu hết các nền kinh tế dần hạ nhiệt, trong bối cảnh giá hàng hóa giảm dần, các chuỗi cung ứng phục hồi. Tuy nhiên, xung đột tại Ukraina kéo dài, nhiều ngân hàng trung ương (NHTW) các nước còn tiếp tục chính sách tiền tệ thắt chặt, giữ lãi suất ở mức cao nhằm kiềm chế lạm phát; thị trường tài chính – tiền tệ toàn cầu rủi ro hơn sau đổ vỡ của một số ngân hàng tại Mỹ và Thụy Sỹ…v.v. Tuy vậy, một số dấu hiệu tích cực đối với kinh tế thế giới, đó là: (i) kinh tế Mỹ tăng trưởng khá, dự báo chỉ suy thoái kỹ thuật từ quý 4/2023 và tránh được nguy cơ vỡ nợ; (ii) kinh tế Trung Quốc mở cửa trở lại tăng sức cung và cầu; nhiều nền kinh tế đang phát triển duy trì được đà tăng trưởng nhờ tiêu dùng nội địa và du lịch; (iii) giá cả (nhấ là giá năng lượng), lạm phát và lãi suất hạ nhiệt rõ rệt, dù còn ở mức cao; và (iv) thị trường tài chính quốc tế cũng dần ổn định,…v.v.
Tuy nhiên, kinh tế thế giới tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức: (i) xung đột tại Ukraina dai dẳng và khó lường; (ii) NHTW nhiều nước duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiểm soát lạm phát, lãi suất vẫn còn ở mức cao; (iii) nhiều đầu tàu kinh tế thế giới suy yếu hoặc phục hồi chậm hơn dự kiến ( kinh tế EU rơi vào suy thoái kỹ thuật, đà phục hồi của kinh tế Trung Quốc thiếu bền vững và chưa tạo được sự lan tỏa cho các nền kinh tế khác ); (iv) Đầu tư, thương mại quốc tế suy giảm; tâm lý tiết kiệm, phòng thủ tăng lên, khiến nhu cầu hàng hóa, dịch vụ giảm, ảnh hưởng đến lĩnh vực xuất khẩu, sản xuất và du lịch tại nhiều nước; (v) rủi ro tài chính – tiền tệ trong tầm kiểm soát song ảnh hưởng tới niềm tin của người dân và nhà đầu tư; và (vi) biến đổi khí hậu với thời tiết khắc nghiệt, cực đoan cản trở đà phục hồi kinh tế của các nước.
Về triển vọng , các tổ chức quốc tế như IMF, WB, OECD nhận định tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2023 chậm lại, chỉ ở mức khoảng 2,1% (theo WB), 2,7% (theo OECD); một số nước có thể rơi vào “suy thoái kỹ thuật” trong nửa cuối năm, trước khi phục hồi và có thể tăng trưởng 2,4-3% năm 2024. Trong khi đó, lạm phát toàn cầu được dự báo giảm từ mức 7,3% năm 2022 xuống khoảng 5,5% năm 2023 và 3,7% năm 2024 (theo WB), song vẫn còn cao so với lạm phát mục tiêu của hầu hết các nước (khoảng 2%).
Bức tranh kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2023
Trong bối cảnh nhiều khó khăn, thách thức hơn là thuận lợi ở cả trong và ngoài nước; kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm dù vậy vẫn ghi nhận 6 điểm sáng sau.
Một là, Chính phủ quyết liệt, nỗ lực duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng. Trong 6 tháng đầu năm, trong bối cảnh kinh tế gặp nhiều khó khăn, tăng trưởng chậm lại; Quốc Hội, Chính phủ đã có nhiều cơ chế, chính sách tháo gỡ các điểm nghẽn của nền kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng. Ngoài Nghị quyết 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển KTXH, dự toán NSNN và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2023; Chính phủ đã ban hành nhiều quyết sách nhằm tháo gỡ khó khăn cho lĩnh vực y tế, các thị trường đất đai, bất động sản, vốn, du lịch, với chính sách tài khóa mở rộng có trọng tâm, trọng điểm và chính sách tiền tệ nới lỏng, linh hoạt…v.v.
Cụ thể, Chính phủ đã ban hành: (i) Nghị định 07/2023/NĐ-CP ngày 3/3/2023 về quản lý trang thiết bị y tế, (ii) Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 4/3/2023 về bảo đảm thuốc, trang thiết bị y tế, (iii) Nghị định 08/2023/NĐ-CP ngày 5/3/2023 về sửa đổi, bổ sung và ngưng hiệu lực thi hành một số điều tại các Nghị định quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) riêng lẻ; (iv) Nghị quyết 33/NQ-CP ngày 11/03/2023 về một số giải pháp tháo gỡ và thúc đẩy thị trường BĐS phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững; (v) Nghị định 10/2023/NĐ-CP ngày 3/4/2023 sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai; Quyết định 388/QĐ-TTg ngày 3/4/2023 phê duyệt Đề án đầu tư xây dựng ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội đến năm 2030; Nghị quyết 58/NQ-CP ngày 21/4/2023 về một số chính sách, giải pháp trọng tâm hỗ trợ doanh nghiệp chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững đến năm 2025; (vi) Nghị quyết 82/NQ-CP năm 2023 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đẩy nhanh phục hồi, tăng tốc phát triển du lịch hiệu quả, bền vững…v.v.
Với chính sách tài khóa , Chính phủ ban hành Nghị định 12/NĐ-CP ngày 14/4/2023 về giãn hoãn thuế, tiền thuê đất, giảm 1 số thuế, phí năm 2023 với tổng quy mô khoảng 198,4 nghìn tỷ đồng; Quốc hội cũng đã quyết nghị giảm 2% thuế GTGT trong 6 tháng cuối năm theo đề xuất của Chính phủ; Nghị định 36/2023/NĐ-CP ngày 21/6/2023 về gia hạn thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt và Nghị định 41/2023/NĐ-CP theo đó giảm 50% lệ phí trước bạ đối với ô tô sản xuất trong nước trong 6 tháng cuối năm…v.v.
Với chính sách tiền tệ , NHNN đã 4 lần giảm lãi suất điều hành (từ 0,5-1,5%) nhằm giảm lãi suất huy động và cho vay, góp phần tăng khả năng tiếp cận và cung cấp vốn cho nền kinh tế. NHNN đã ban hành Thông tư 02/2023/TT-NHNN về cơ cấu lại nợ, hoãn giãn nợ, không chuyển nhóm nợ (nhằm kiểm soát nợ xấu, tăng khả năng tiếp cận vốn cho người dân và doanh nghiệp) và Thông tư 03/2023/TT-NHNN (sửa đổi Thông tư 16/2021) nới lỏng một số điều kiện về cho vay, đầu tư TPDN của các TCTD, góp phần tháo gỡ khó khăn hiện tại cho thị trường TPDN. Cùng với đó, gói tín dụng 120 nghìn tỷ đồng của 4 NHTM lớn, cho vay nhà ở xã hội với lãi suất ưu đãi, thấp hơn 1,5-2% cũng đã chính thức được hướng dẫn triển khai.
Hai là , lĩnh vực dịch vụ phục hồi tốt, là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế: Lĩnh vực dịch vụ tăng 6,33%, đóng góp gần 79% vào mức tăng trưởng chung 6 tháng đầu năm nhờ: (i) doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng 18,7% (so với mức tăng 20,9% cùng kỳ năm 2022). Đáng chú ý, doanh thu dịch vụ lữ hành tăng gấp 1,66 lần cùng kỳ năm trước nhờ du lịch quốc tế phục hồi, Việt Nam đã đón gần 5,6 triệu lượt khách quốc tế, gấp hơn 9,3 lần so với cùng kỳ năm trước; (ii) lĩnh vực vận tải hành khách và vận tải hàng hóa cùng đạt mức tăng 15,9% so với cùng kỳ, cao hơn mức tăng trưởng vận tải hành khách và vận tải hàng hóa lần lượt là 6,2% và 8,6% của cùng kỳ năm trước; (iii) lĩnh vực dịch vụ tài chính – ngân hàng – bảo hiểm tăng 7,13% so với cùng kỳ năm ngoái, đóng góp 0,4 điểm % vào mức tăng chung…v.v.
Ba là, lạm phát hạ nhiệt, được kiểm soát ở mức phù hợp : CPI bình quân 6 tháng tăng 3,29 % (từ mức tăng 4,89% tháng 1) so với cùng kỳ 2022, lạm phát cơ bản bình quân 6 tháng tăng 4,74% (từ mức tăng 5,21% tháng 1) so với cùng kỳ năm trước. Xu hướng lạm phát giảm ngày càng rõ nét nhờ xu hướng hạ nhiệt của giá hàng hóa – dịch vụ thế giới, sự chủ động, đảm bảo nguồn cung các mặt hàng thiết yếu; lộ trình tăng giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý được điều tiết hợp lý, tạo thêm dư địa mở rộng chính sách tài khóa và tiền tệ.
Bốn là, các cân đối vĩ mô được giữ vững, lãi suất giảm, tỷ giá ổn định: Lãi suất huy động giảm mạnh trong 6 tháng đầu năm, với mức giảm 1,5-2,5% so với cuối năm 2022 (lãi suất huy động 12 tháng hiện nay phổ biến ở mức 6,3-7,6%/năm) khi: (i) NHNN 4 lần hạ lãi suất điều hành và trần lãi suất huy động tiền gửi ngắn hạn; (ii) thanh khoản hệ thống ngân hàng được cải thiện (tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 2,8%, huy động vốn tăng 3,5% so với cuối năm 2022) và nhu cầu tín dụng tăng thấp (tín dụng chỉ tăng 4%, thấp hơn nhiều mức tăng 9,44% của 6 tháng đầu năm trước) do hoạt động của doanh nghiệp còn nhiều khó khăn, đơn hàng ít và các TCTD vẫn phải duy trì điều kiện cho vay thận trọng khi điều kiện kinh doanh khó khăn, tiềm ẩn nợ xấu.
Trong nửa đầu năm 2023, tỷ giá cơ bản ổn định , trở về mức của tháng 9/2022 (trước khi xảy ra biến động mạnh về tỷ giá và lãi suất). Hết tháng 6/2023, tỷ giá liên ngân hàng giảm 0,36%, trong khi tỷ giá trung tâm tăng 0,7% so với cuối năm 2022. Tỷ giá ổn định khi: (i) đồng USD trên thị trường quốc tế giảm (tính chung 6 tháng giảm 0,34% so với cuối năm 2022); (ii) nhu cầu thanh toán ngoại tệ ở mức thấp khi kim ngạch nhập khẩu giảm mạnh (-18,2% so với cùng kỳ), thặng dư thương mại ở mức 12,25 tỷ USD; du lịch quốc tế phục hồi; dự trữ ngoại hối tăng lên khi NHNN tiếp tục tăng mua USD.
Năm là, giải ngân đầu tư công được thúc đẩy và cải thiện rõ nét. Trong 6 tháng đầu năm, giải ngân đầu tư công tiếp tục đạt được kết quả tích cực với mức thực hiện từ nguồn ngân sách ước đạt 232,2 nghìn tỷ đồng, bằng 33% kế hoạch năm và tăng 20,5% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 bằng 32,1% và tăng 10,4%). Trong bối cảnh nền kinh tế còn nhiều khó khăn, kết quả giải ngân vốn đầu tư công trong 6 tháng đầu năm là điểm sáng tích cực, là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong năm 2023.
Sáu là , dù còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng tình hình kinh tế – xã hội đang dần cải thiện , quý 2 tăng trưởng 4,14% cao hơn quý trước (3,32%); sản xuất Công nghiệp, chỉ số quản trị mua hàng (PMI), xuất – nhập khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, tình hình doanh nghiệp qua tháng 5 và tháng 6 đã tốt dần lên so với tháng 4 và quý 1.
Bức tranh kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm ghi nhận nhiều điểm sáng
Bảy rủi ro, thách thức chính
Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam vẫn đối mặt với 7 rủi ro, thách thức chính.
Một là, rủi ro, thách thức từ bên ngoài vẫn hiện hữu như đã nêu trên. Những rủi ro, thách thức này tiếp tục tác động tiêu cực đến xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng, du lịch quốc tế và thị trường tài chính – tiền tệ của Việt Nam.
Hai là, GDP tăng trưởng thấp hơn mục tiêu đề ra: tăng trưởng GDP quý 2/2023 ước đạt 4,14%, là mức rất thấp của quý 2 trong 12 năm qua ( chỉ cao hơn 0,34% của quý II/2020 – thời kỳ dịch Covid-19 ). Tính chung 6 tháng đầu năm, GDP tăng 3,72% so với cùng kỳ, thấp hơn nhiều so với mục tiêu của Chính phủ đã đề ra tại Nghị quyết 01 (là 6,2%), khi nhiều động lực tăng trưởng chậm lại (chủ yếu là do tổng cầu giảm và một phần là do nền tăng trưởng cao của nửa đầu năm 2022) cho thấy để đạt được mục tiêu tăng trưởng 6,5% năm 2023 sẽ là thách thức rất lớn trong bối cảnh kinh tế giới rủi ro hơn và nội tại kinh tế Việt Nam còn nhiều điểm nghẽn (thị trường đất đai, chứng khoán, BĐS, xây dựng…) cần thời gian để tháo gỡ, đòi hỏi nỗ lực hơn nữa của Chính phủ, bộ, ngành, địa phương cùng sự đồng lòng, quyết tâm của người dân và doanh nghiệp.
Ba là, xuất – nhập khẩu sụt giảm và chịu tác động tiêu cực rõ nét hơn: trong 6 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất – nhập khẩu đạt 316,7 tỷ USD, giảm 15,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 164,5 tỷ USD, giảm 12,1% ; nhập khẩu đạt 152,2 tỷ USD, giảm 18,2% . Nguyên nhân xuất khẩu giảm chủ yếu là do: (i) cầu thế giới giảm mạnh (do lạm phát cao, lãi suất cao, một số nước suy thoái kỹ thuật…), nhất là tại nhiều thị trường, đối tác chủ lực của Việt Nam [xuất khẩu sang Mỹ giảm (-22,6%), Hàn Quốc (-10,2%) và EU (-10,1%)..]; (ii) giá các mặt hàng XNK giảm (chỉ số giá xuất khẩu trong 6 tháng giảm 0,52%, chỉ số giá nhập khẩu giảm 3,85% so với cùng kỳ năm trước); (iii) chi phí logistics còn cao, tiến trình xanh hóa một số lĩnh vực còn chậm, khiến một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam kém cạnh tranh hơn các quốc gia khác. Điểm tích cực là cán cân thương mại thặng dư 12,25 tỷ USD , góp phần ổn định tỷ giá, tăng dự trữ ngoại hối, nhưng cũng cho thấy sức cầu sản xuất còn yếu trong bối cảnh đơn hàng xuất khẩu chưa phục hồi đáng kể.
Bốn là, thu hút FDI còn giảm: trong 6 tháng đầu năm, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam ước đạt 13,43 tỷ USD, giảm 4,3% so với cùng kỳ năm trước (cải thiện so với mức giảm 7,3% và giảm 17,9% của 5 tháng và 4 tháng đầu năm), chủ yếu là do vốn đăng ký điều chỉnh đạt 2,93 tỷ USD ( giảm 57% so với cùng kỳ), trong khi vốn đăng ký cấp mới đạt 6,5 tỷ USD (tăng 31,3%) , vốn góp mua cổ phần đạt 4,01 tỷ USD ( tăng 76,6% ). Giải ngân vốn FDI đạt 10,02 tỷ USD , tăng nhẹ 0,5% so với cùng kỳ năm trước, chứng tỏ các dự án hiện tại vẫn đang tích cực triển khai.
Năm là, thu NSNN giảm do kinh tế tăng trưởng thấp, DN gặp nhiều khó khăn. Thu NSNN trong 6 tháng đầu năm đạt 875,8 nghìn tỷ đồng, bằng 54% dự toán, giảm 7 ,8% so với cùng kỳ 2022 (chủ yếu là do thu nội địa, thu từ dầu thô và thu từ XNK giảm lần lượt là 4,7%; 15% và 20,6%). Chi NSNN đạt 804,6 nghìn tỷ đồng, bằng 38,8% dự toán năm, tăng 12,9% so với cùng kỳ 2022, chủ yếu là do tình hình giải ngân đầu tư phát triển tăng mạnh (+43,3%) so với cùng kỳ và chi thường xuyên tăng 5,5%. Tuy thu NSNN giảm nhưng NSNN vẫn thặng dư 71,2 nghìn tỷ đồng trong 6 tháng đầu năm, chủ yếu là do tỷ lệ chi đầu tư phát triển tuy đã cải thiện nhưng vẫn ở mức thấp (chỉ đạt 29,7% dự toán năm).
Sáu là, doanh nghiệp đối mặt với nhiều khó khăn và ngày càng rõ nét hơn: Trong 6 tháng đầu năm, hoạt động của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, do tác động của cả yếu tố bên ngoài và nội tại nền kinh tế, bao gồm: (i) sức chống chịu suy giảm sau 3 năm dịch bệnh; (ii) vướng mắc về pháp lý, môi trường kinh doanh khi tình trạng ngại sai, sợ trách nhiệm, giải quyết công vụ chậm của nhiều bộ phận công chức vẫn diện ra; (iii) các vấn đề về tài chính (mặt bằng lãi suất dần hạ nhiệt nhưng còn cao, khả năng hấp thụ vốn và đáp ứng điều kiện vay vốn ở mức thấp, thị trường TPDN thu hẹp); (iv) chi phí đầu vào vẫn ở mức cao trong khi thị trường đầu ra khó khăn, đơn hàng xuất khẩu giảm; (v) thị trường lao động gặp khó khăn khi DN phải giảm giờ làm, giảm lương, sa thải nhân viên…; và (vi) tình trạng cung ứng điện không ổn định, qui định phòng cháy chữa cháy, vấn đề đăng kiểm…dù đã dần khắc phục nhưng vẫn là nỗi lo của nhiều DN.
Bảy là, tín dụng tăng thấp, nợ xấu gia tăng dù trong tiên lượng và tầm kiểm soát: tín dụng 6 tháng đầu năm 2023 chỉ tăng 3,58% so với cuối năm trước, thấp hơn nhiều so với mức tăng 9,44% của cùng kỳ năm 2022 cho thấy nhu cầu và khả năng hấp thụ vốn tín dụng còn rất yếu, mặc dù lãi suất cho vay đã giảm (như đã phân tích ở trên).
Theo NHNN, đến tháng 3/2023, tỷ lệ nợ xấu nội bảng khoảng 2,91% và nợ xấu gộp (bao gồm nợ xấu nội bảng, nợ xấu bán cho VAMC chưa xử lý và nợ cơ cấu lại tiềm ẩn thành nợ xấu) khoảng 5% . Nợ xấu dù tăng nhưng trong tầm kiểm soát, đặc biệt khi Thông tư 02/2023/TT-NHNN cho phép TCTD thực hiện cơ cấu thời hạn trả nợ, không chuyển nhóm nợ trong vòng 1 năm, chính sách này thực hiện đến thời điểm 30/6/2024, mức độ cơ cấu lại cần đáp ứng những điều kiện cụ thể và năng lực tài chính của TCTD. Thông tư 02 sẽ giúp cho tỷ lệ nợ xấu không bị tăng quá cao, giúp cho doanh nghiệp, bên vay có thể tiếp tục tiếp cận vốn để sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, các TCTD vẫn phải trích lập dự phòng rủi ro tín dụng phù hợp với thực chất khoản vay, theo lộ trình 50% năm 2023 và đủ 100% hết năm 2024. Điều này có ảnh hưởng phần nào đến lợi nhuận của các TCTD nhưng không nhiều do các TCTD cũng đã chủ động tăng trích lập dự phòng trong 3 năm qua và năng lực tài chính khá vững chắc, rủi ro TPDN và tín dụng BĐS cơ bản trong tầm kiểm soát.
Dự báo cả năm 2023
Trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước còn nhiều khó khăn, Nhóm tác giả dự báo tăng trưởng và lạm phát cả năm 2023 như sau.
– Tăng trưởng GDP : trong bối cảnh quốc tế kém thuận lợi như nêu trên, với kết quả tăng trưởng khá thấp của 6 tháng đầu năm (3,72%) và mức nền cao của năm 2022, dự báo khó có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng 6,5% cả năm 2023 như Quốc Hội, Chính phủ đã đề ra ( để đạt được mục tiêu này, tăng trưởng quý 3 và quý 4 phải đạt lần lượt khoảng 9,5% và 8,5%). Theo tính toán của Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV, dự báo tăng trưởng GDP cả năm 2023 (kịch bản cơ sở) ở mức khoảng 5-5,5% (thấp hơn so với dự báo 5,5-6% hồi tháng 3) , trong đó tăng trưởng quý 3 có thể đạt 7-7,2% và quý 4 đạt 6,8-7%.
– Lạm phát: với các yếu tố hỗ trợ đang chiếm ưu thế (các mặt hàng do Nhà nước quản lý tiếp tục được điết tiết hợp lý, lãi suất giảm, tỷ giá ổn định…), chỉ số CPI 6 tháng cuối năm dự báo sẽ thấp hơn nửa đầu năm. Tuy nhiên, các yếu tố áp lực lạm phát vẫn còn (giá dầu và giá hàng hóa thế giới dù hạ nhiệt song còn cao; giá nguyên vật liệu trong nước có độ trễ so với đà giảm giá thế giới; lộ trình tăng giá của các mặt hàng do Nhà nước quản lý như giá điện, lương tối thiểu vùng, dịch vụ y tế, giáo dục…đã và đang tăng; cung tiền và vòng quay tiền cải thiện cùng với đà hồi phục sức cầu vào thời vụ cuối năm). Dự báo lạm phát cả năm nhiều khả năng sẽ tăng 3,8-4,2%, thấp hơn so với mục tiêu 4,5%. Điều này cũng góp phần củng cố dư địa cho các chính sách tài khóa và tiền tệ đang triển khai.
Sáu kiến nghị
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng, kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô năm 2023, . Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV có 6 kiến nghị như sau:
Một là, cần tiếp tục nghiêm túc thực hiện Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 6/1/2023; các chỉ thị, nghị quyết, nghị định gần đây của Chính phủ; tổ chức thực hiện đúng thời hạn và tốt những quyết sách mà Quốc hội, Chính phủ đã ban hành như nêu trên; tiếp tục bám sát tình hình kinh tế, tài chính quốc tế; chủ động phân tích, dự báo diễn biến thị trường tài chính – tiền tệ quốc tế để có kịch bản chủ động ứng phó phù hợp; tiếp tục bình ổn, lành mạnh hóa các thị trường (chứng khoán, TPDN, BĐS, xăng dầu, thanh khoản ngân hàng…) nhằm củng cố niềm tin nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân.
Hai là, các bộ ngành, địa phương đẩy mạnh triển khai Chương trình phục hồi 2022-2023, các chương trình mục tiêu quốc gia và giải ngân đầu tư công, nhất là đối với các dự án trọng điểm, có tính lan tỏa cao, đầu tư cơ sở hạ tầng; đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện hồ sơ dự án, giải phóng mặt bằng, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính; kịp thời tháo gỡ vướng mắc trong triển khai; chú trọng cơ cấu lại nền kinh tế (nhất là các DNNN, dự án yếu kém, TCTD yếu kém…) nhằm thu hút và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn .
Ba là, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong đó cần chú trọng các động lực tăng trưởng bao gồm: (i) đẩy mạnh giải ngân đầu tư công bởi theo đánh giá của Viện ĐT&NC BIDV, nếu giải ngân được 95% tổng vốn 713 nghìn tỷ đồng như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, đầu tư Nhà nước có thể tăng 30%, tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 13,2% và đóng góp 2 điểm % vào tăng trưởng GDP năm 2023; (ii) kích cầu tiêu dùng nội địa , theo tính toán của Nhóm tác giả, tiêu dùng (loại trừ yếu tố giá) tăng thêm 1 điểm % sẽ giúp GDP tăng thêm 0,2 điểm %; (iii) quan tâm thúc đẩy phục hồi và tăng trưởng của các đầu tàu nền kinh tế , nhất là Hà Nội và TP. HCM (hai thành phố này đóng góp khoảng 39% tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2019 và có tính lan tỏa cao)…v.v.
Bốn là, tiếp tục phối hợp chính sách hiệu quả (đặc biệt giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác) nhằm tiếp tục giảm lãi suất, bình ổn tỷ giá, giá hàng hóa thiết yếu và các thị trường tài chính, xây dựng, BĐS, lao động…; nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, đảm bảo ổn định vĩ mô, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng. Theo đó, cần tổ chức thực hiện hiệu quả các chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách khác đã ban hành (như nêu trên) cũng như chính sách hoàn thuế VAT…v.v.
Năm là, quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp chịu tác động tiêu cực từ suy giảm xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng bằng cách: (i) khai thác tốt hơn các FTAs đã ký kết, thực hiện hiệu quả hơn công tác xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu, đa dạng hóa hàng hóa và thị trường xuất khẩu, đầu tư; (ii) tiếp tục đẩy mạnh cải thiện thực chất môi trường đầu tư – kinh doanh, thủ tục hành chính, vướng mắc về qui định phòng cháy – chữa cháy, cung ứng điện, giảm mạnh tình trạng sợ sai, sợ trách nhiệm, đùn đẩy…; (iii) triển khai hiệu quả các biện pháp khuyến mại, kích cầu thương mại và du lịch trong nước; (iv) rà soát, cập nhật và điều chỉnh cơ chế, chính sách thu hút FDI theo hướng tập trung vào cải thiện mạnh mẽ, thực chất môi trường đầu tư – kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, nhất là các vấn đề về thể chế, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực; (v) quyết liệt tháo gỡ các vướng mắc, rào cản lớn đối với doanh nghiệp hiện nay, nhất là về vấn đề pháp lý, thị trường đầu ra, tiếp cận vốn (đặc biệt là khả năng tiếp cận và năng lực hấp thụ vốn) và lao động.
Sáu là, xây dựng chiến lược, giải pháp cụ thể để tăng tính độc lập, tự chủ, tự cường và nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế, của các ngành, lĩnh vực và doanh nghiệp Việt Nam; đẩy nhanh tiến trình hoàn thiện thể chế (nhất là các luật đất đai, nhà ở, kinh doanh BĐS, TCTD…), bao gồm cả tháo gỡ rào cản, chú trọng khâu thực thi và phối hợp chính sách; xây dựng thể chế cho phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, vừa tận dụng cơ hội, vừa hỗ trợ vượt qua khó khăn, thách thức.