TỔNG THUẬT: Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam thường niên 2023
Sáng 19/3, tại Hà Nội, đã diễn ra Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF) thường niên năm 2023 với chủ đề “Cộng đồng doanh nghiệp đồng hành cùng Chính phủ Việt Nam trong thúc đẩy tăng trưởng xanh”. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự và phát biểu chỉ đạo Diễn đàn
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng; bà Carolyn Turk, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới; ông Thomas Jacobs, Giám đốc Quốc gia cấp cao Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) đồng chủ trì Diễn đàn.
Tham dự Diễn đàn có đại diện lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, đại diện ngoại giao, các tổ chức quốc tế, các Hiệp hội Doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam.
Phát biểu khai mạc Diễn đàn, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết: Năm 2022 là một năm kinh tế thế giới đầy biến động phức tạp, khó lường và nhiều thách thức đan xen song Việt Nam đã đạt được những kết quả tăng trưởng kinh tế – xã hội quan trọng, khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực.
Năm 2022, quy mô nền kinh tế Việt Nam lần đầu tiên vượt mốc 400 tỷ USD với mức tăng trưởng là 8,02%, GDP bình quân/người hơn 4.000 USD. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 3,22 triệu tỷ đồng, tăng 11,5%; trong đó, vốn FDI giải ngân đạt gần 22,4 tỷ USD, là mức cao nhất trong 5 năm qua. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt mức kỷ lục 732 tỷ USD, đưa Việt Nam vào trong nhóm 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất thế giới; tiếp tục duy trì xuất siêu năm thứ 7 liên tiếp với kim ngạch đạt 11,2 tỉ USD.
Môi trường đầu tư, kinh doanh tiếp tục được cải thiện, phát triển doanh nghiệp có nhiều khởi sắc, đã có hơn 208.300 doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường, tăng hơn 30% so với cùng kỳ. Khu vực du lịch, dịch vụ phát triển sôi động trở lại, nhất là từ sau khi kiểm soát được dịch bệnh, tăng 19,8%. Nhiều dự án hạ tầng quan trọng, nhất là giao thông, năng lượng được đẩy nhanh tiến độ. Cùng với các tín hiệu khả quan nêu trên, vị trí của Việt Nam trên hàng loạt các bảng xếp hạng đã có những bước tiến đáng kể, nhiều tổ chức quốc tế nhận định Việt Nam là “điểm sáng trong bức tranh xám màu” của kinh tế toàn cầu.
Đạt được kết quả tích cực nêu trên là nhờ vào đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước; sự chỉ đạo, điều hành, quyết liệt, linh hoạt và kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự vào cuộc của toàn bộ hệ thống chính trị cùng với sự hỗ trợ của bạn bè quốc tế và đặc biệt là sự đồng hành của cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Phục hồi và phát triển kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh, bền vững hiện đang là ưu tiên hàng đầu và là mục tiêu mà mọi quốc gia đang hướng tới. Mục tiêu chung là nhằm đạt được sự thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội; hướng tới nền kinh tế xanh, trung hòa carbon và đóng góp vào mục tiêu hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu. Với Việt Nam, tăng trưởng xanh không chỉ là lựa chọn tất yếu mà còn là cơ hội để trở thành quốc gia tiên phong trong khu vực, bắt kịp xu thế phát triển của thế giới.
Nhận thức được tầm quan trọng của tăng trưởng xanh, Việt Nam đã sớm tiếp cận với mô hình phát triển xanh và bền vững. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành: (1) Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; (2) Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030; (3) Đề án phát triển kinh tế tuần hoàn. Các nhiệm vụ xuyên suốt là phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi mô hình kinh tế theo hướng kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức để tham gia sâu hơn vào cấu trúc đầu tư, trật tự thương mại và chuỗi cung ứng toàn cầu.
Đây được coi là chìa khóa đảm bảo cho việc thực hiện thành công các mục tiêu trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm giai đoạn 2021-2030; đồng thời, tạo cơ hội để Việt Nam tiếp tục đà đổi mới, đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, đề cao chất lượng, hiệu quả và tính bền vững.
Trong quá trình đó, cộng đồng doanh nghiệp được xác định là nhân tố trọng tâm, đóng vai trò quan trọng. Những năm gần đây, nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về vai trò của mình trong chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia đã được nâng lên rõ rệt, từng bước thay đổi hành vi và có nhiều hành động thiết thực đóng góp vào thực hiện tăng trưởng xanh. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp đã và đang lấy kinh doanh “xanh” là chiến lược và lợi thế cạnh tranh; từ sử dụng năng lượng sạch, nguyên vật liệu thân thiện môi trường, ủng hộ các hoạt động trách nhiệm xã hội, đến đầu tư nghiêm túc vào những dây chuyền sản xuất hiện đại, công nghệ cao, thân thiện môi trường, sử dụng ít tài nguyên, năng lượng, giảm thiểu chất thải và khí thải…
Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới, nhiều thách thức khó khăn nhưng cũng mở ra không ít cơ hội. Với tầm nhìn xa, hoài bão lớn, quyết tâm cao, Việt Nam đặt mục tiêu trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045. Để đạt được điều đó, chúng ta cần đồng tâm, hiệp lực, chung sức đồng lòng, kiên định triển khai hiệu quả Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh nhằm thực hiện các cam kết quốc tế mạnh mẽ, tiếp tục khẳng định vai trò là thành viên tích cực và có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế.
Trong bối cảnh đó, Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam với chủ đề “Cộng đồng doanh nghiệp đồng hành cùng Chính phủ Việt Nam trong thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh” hết sức có ý nghĩa. Hội nghị sẽ là cơ hội để cộng đồng doanh nghiệp tham mưu cho Chính phủ các giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xanh, bền vững; có cam kết, lộ trình cụ thể, nâng cao trách nhiệm cộng đồng của doanh nghiệp bên cạnh việc thực hiện đầu tư kinh doanh có hiệu quả; có trách nhiệm đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững của Việt Nam.
Đặc biệt hơn, Hội nghị lần này tổ chức đúng vào dịp kỷ niệm 25 năm thành lập và phát triển của Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam. Trong suốt hành trình đó, Diễn đàn đã luôn bám sát mục tiêu và nhiệm vụ là cầu nối giữa cộng đồng doanh nghiệp với các cơ quan Chính phủ Việt Nam. Thông qua Diễn đàn, cộng đồng doanh nghiệp đã phản biện, đưa ra nhiều khuyến nghị có giá trị để hoàn thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam cũng như đồng hành cùng Chính phủ thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội bền vững.
Ngày hôm nay, tôi đánh giá cao và trân trọng cảm ơn VBF, các Hiệp hội doanh nghiệp, Ngân hàng Thế giới (WB), Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC) đã đồng hành cùng Chính phủ và các Bộ, ngành trong suốt 25 năm qua. Với tất cả ý nghĩa đó, tôi xin tuyên bố khai mạc Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam.
Ông Thomas Jacobs, Giám đốc Quốc gia Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC): Diễn đàn hôm nay diễn ra trong thời khắc rất đặc biệt khi Việt Nam cùng thế giới đang đẩy mạnh việc chuyển đổi tới một nền kinh tế theo mô hình xanh hơn và bền vững hơn và mô hình này sẽ thúc đẩy tăng trường, giảm tác động tới môi trường và giải quyết các rủi ro liên quan đến biến đổi khí hậu.
Trong lịch sử, Việt Nam đã đóng góp khá ít trong phát thải khí nhà kính nhưng hai thập niên vừa qua, với tốc độ tăng trưởng nhanh, Việt Nam là một trong những nền kinh tế thâm dụng về carbon nhất ở Đông Á. Khi nhận thức được nhu cầu giảm thiểu khí nhà kính và đối phó với biến đổi khí hậu, Việt Nam đã đưa ra những cam kết tham vọng tại COP26 để có được trung hòa carbon vào năm 2050 và hiện thực hóa nỗ lực này. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045 và đạt được phát thải carbon trung hòa vào năm 2050, Việt Nam phải đẩy mạnh việc khử carbon nền kinh tế thông qua quá trình chuyển đổi năng lượng và bảo vệ môi trường. Điều này đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa khu vực công, tư nhân và nguồn tài chính cần có.
Báo cáo Quốc gia về Khí hậu và Phát triển cho Việt Nam của Ngân hàng Thế giới dự báo rằng lộ trình tăng trưởng phát thải ròng bền vững cần phải có thêm tới 6,8% GDP đầu tư hằng năm, tức là 368 tỷ USD cho tới năm 2040 và một nửa phần này khoảng 184 tỷ USD cần có từ khu vực tư nhân và để huy động được thì chúng ta phải vượt qua một số rào cản cơ bản như môi trường thể chế, pháp luật để khu vực tư nhân đầu tư vào những ngành chính gây phát thải như năng lượng, giao thông, nông nghiệp và sản xuất nhanh hơn, đơn giản hơn, rẻ hơn.
Thứ hai, cần có hợp đồng mua điện theo đúng chuẩn quốc tế để thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài trong ngành rất quan trọng này.
Thứ ba, cần có thị trường vốn để có được các mô hình huy động trái phiếu bền vững và các cấu trúc này để Việt Nam đạt được những nguồn tài chính cần thiết trong lộ trình biến đổi khí hậu của mình.
Cuối cùng, cần có sự tham gia của khu vực tư nhân hơn nữa, thêm cơ hội cho họ trong thị trường carbon. Đây là thị trường mang tính tự nguyện nhưng sau này, bắt buộc chúng ta bảo đảm được môi trường đó phát triển mạnh mẽ và có được nền kinh tế xanh hơn trong việc giúp Việt Nam tăng cường khả năng cạnh tranh cũng như tiếp cận hàng hóa tốt hơn. Điều này cần sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa khu vực tư nhân trong nước, nhà đầu tư nước ngoài để chuyển giao kiến thức, kinh nghiệm và công nghệ mới cho nền kinh tế xanh Việt Nam.
Hôm nay chúng ta kỷ niệm 25 năm thành lập Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam VBF. Trong tương lai, tôi tin tưởng chắc chắn rằng với tinh thần hợp tác trong đối thoại ngày hôm nay giữa khu vực tư nhân và Chính phủ, trong những năm tới, sẽ có được sự tăng trưởng xanh bền vững mạnh mẽ tại Việt Nam. Tổ chức Tài chính Quốc tế IFC cùng với các đồng nghiệp từ Ngân hàng Thế giới rất vinh dự làm đối tác với Chính phủ và doanh nghiệp để thúc đẩy phát triển khu vực tư nhân. Tôi hy vọng Việt Nam đạt được tham vọng của mình trở thành quốc gia có thu nhập cao và đi đầu trong kinh tế xanh.
Ông Phạm Tấn Công, Chủ tịch VCCI, Đồng Chủ tịch Liên minh Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam:
Năm 2022 bối cảnh trong nước và thế giới có rất nhiều biến động, bất ổn, nhiều khó khăn, thách thức, nhưng hôm nay, tại diễn đàn này chúng ta vui mừng khẳng định năm 2022 là năm Việt Nam đã thành công trong thực hiện mục tiêu phục hồi và phát triển sau đại dịch Covid 19. GDP Việt Nam năm 2022 tăng trưởng 8,02%, thuộc nhóm cao nhất trên thế giới, quy mô GDP đạt 409 tỷ USD, vươn lên vị trí thứ 37 thế giới. Kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2022 đạt mức kỷ lục mới là trên 732 tỷ USD, thuộc nhóm TOP 20 thế giới.
Đạt được kết quả xuất sắc này là sự nỗ lực chung của cả nước, trong đó có vai trò đặc biệt quan trọng của Chính phủ, của Thủ tướng chính phủ đã rất quyết liệt, kịp thời trong điều hành, nhất là trong triển khai chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội theo Nghị quyết 11/NQ-CP thực hiện Nghị quyết 43 của Quốc hội, cũng như trong đảm bảo giữ ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát cùng nhiều giải pháp tháo gỡ các nút thắt, hỗ trợ sản xuất, kinh doanh.
Chúng ta cũng ghi nhận vai trò và đóng góp quan trọng của cộng đồng doanh nghiệp, sự đồng hành của doanh nghiệp và chính phủ, mà kết quả thể hiện rõ nét không chỉ ở sự phục hồi tăng trưởng kinh tế đất nước mà cả trong thu ngân sách nhà nước, với kết quả năm 2022 thu ngân sách nhà nước Việt Nam vượt dự toán gần 28% và tăng 15% so với năm 2021. Cộng đồng doanh nghiệp năm 2022 cũng đã phát triển đạt quy mô xấp xỉ 1 triệu doanh nghiệp. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ KH&ĐT cùng toàn thể Chính phủ về sự ủng hộ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển.
Kết quả đạt được năm 2022 là rất ấn tượng, nhưng các tháng cuối năm 2022, đầu năm 2023 đã cho thấy những dấu hiệu đáng quan ngại, đòi hòi cộng đồng doanh nghiệp doanh nghiệp và chính phủ phải đồng hành và hành động quyết liệt hơn nữa. Đà tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã suy giảm rõ rệt, đồng thời trong 2 tháng đầu năm 2023 có tới 51.400 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, trong khi chỉ có 37.900 doanh nghiệp thành lập mới hoặc quay lại thị trường, tức đội ngũ DN tại VN đã sụt giảm trên 13.000 DN chỉ trong 2 tháng.
Bên cạnh đó, Việt Nam đang đặt ra những mục tiêu phát triển rất cao, đó là đến năm 2045 trở thành quốc gia phát triển thu nhập cao, đến năm 2050 giảm phát thải ròng carbon bằng 0. Rõ ràng, để Việt Nam vượt qua các khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển, cả Chính phủ và cộng đồng DN phải đồng hành, phải cùng chia sẻ tầm nhìn và chiến lược phát triển nhanh, xanh, bền vững.
Để đến giữa thế kỷ này trở thành quốc gia phát triển, văn minh, hiện đại, Việt Nam phải thực hiện mục tiêu kép là phát triển nhanh và xanh, với mức tăng trưởng GDP duy trì ở mức 6-7%/năm, đồng thời phải đưa công nghệ xanh vào phổ cập trong hoạt động kinh tế. Chính mục tiêu và yêu cầu phát triển này tạo ra cơ hội và không gian phát triển mới cho cộng đồng doanh nghiệp, gồm cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, cho các nhà đầu tư quốc tế. Tuyên bố của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Hội nghị COP26, và quyết tâm của Chính phủ đẩy mạnh phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là cam kết và đóng góp của Việt Nam trong giải quyết những thách thức toàn cầu về biến đổi khí hậu và vấn đề môi trường. Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn ủng hộ, hưởng ứng và đồng hành cùng chính phủ thực hiện các mục tiêu và cam kết phát triển quan trọng này.
Chủ đề Diễn đàn VBF năm nay là “Cộng đồng doanh nghiệp đồng hành cùng Chính phủ Việt Nam trong thúc đẩy tăng trưởng xanh” có ý nghĩa hết sức to lớn. Cùng với các nội dung đề xuất thảo luận tại Phiên kỹ thuật ngày 17/3, Diễn đàn cấp cao ngày hôm nay là dịp để cộng đồng doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam đề xuất với Chính phủ các giải pháp cụ thể để thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế xanh. Đồng thời, cũng thể hiện rõ vai trò và trách nhiệm của cộng đồng doanh nghiệp đối với mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam trong hiện tại và tương lai.
Ông Soren Roed Pedersen, Đồng Chủ tịch VBF báo cáo tóm tắt về phiên họp kỹ thuật, chuyên sâu ngày 18/02 của 11 Nhóm công tác, gồm: Nông nghiệp, Cơ sở hạ tầng, Điện và Năng lượng, Khai khoáng, Kinh tế số, Đầu tư và Thương mại, Thuế và Hải quan, Nguồn nhân lực, Giáo dục và Đào tạo, Du lịch, Môi trường.
Phiên họp đã đưa ra báo cáo nhằm góp phần tạo cơ sở cho Chính phủ và các bộ, ngành của Việt Nam xem xét tích cực đối với việc thay đổi một số chính sách, cải thiện việc thực thi luật và quy định, đồng thời nhận thấy sự cần thiết của việc trao đổi sâu hơn nhằm thu hút hơn nữa nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Trong giai đoạn mới của COVID-19, việc tổ chức phiên họp kỹ thuật là một bước tiến lớn để khôi phục lại cơ chế hoạt động thông thường của VBF, đồng thời chuẩn bị cho những thách thức và cơ hội sắp tới nhằm khôi phục nền kinh tế và phát triển chuỗi cung ứng trong “trạng thái bình thường mới”.
Chúng tôi hiểu được rằng để đối phó với tình hình do COVID-19 gây ra, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 11 về chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội và Chính phủ đang hành động để triển khai và thực hiện hiệu quả chương trình này.
Với định hướng đó, cả hai bên đều tập trung vào những mục tiêu chung, đó là huy động vốn đầu tư nước ngoài để duy trì những thành công của Việt Nam trong những năm gần đây và thực sự tận dụng được các cơ hội mới khi hệ thống thương mại toàn cầu có những cách thức mới để đẩy mạnh phục hồi trong chuỗi cung ứng quốc tế.
Sau nhiều thảo luận giữa hai bên, có 3 nhóm vấn đề chính của Phiên họp kỹ thuật cần được đánh giá và trao đổi thêm:
Một là, còn một số tồn tại, hạn chế trong khâu thực thi chính sách pháp luật và việc triển khai chính sách pháp luật của một số nơi còn quá cứng nhắc và thiếu thống nhất ở cấp làm việc tại cả Trung ương và địa phương khiến các doanh nghiệp nước ngoài gặp khó khăn.
Hai là, một số luật và quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn, đặc biệt là đối với một số nội dung mới như kinh tế số, môi trường, những lĩnh vực này cần khuôn khổ pháp lý linh hoạt hơn để các doanh nghiệp nước ngoài có thể phát triển mạnh mẽ
Ba là, một số sáng kiến, giải pháp mới trong việc thực hiện các công việc, thủ tục hành chính được đề xuất và cần được xem xét sớm trong bối cảnh doanh nghiệp trong nước và nước ngoài phải đối mặt với nhiều thách thức mới do COVID-19
Đối với nhóm vấn đề thứ nhất, Nhóm công tác Đầu tư và Thương mại ghi nhận sự cải thiện lớn trong việc cấp phép qua mạng Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, tuy nhiên cũng nêu vấn đề “giấy phép con” cản trở kinh doanh, bao gồm điều kiện “kiểm tra nhu cầu kinh tế” trong lĩnh vực bán lẻ, “giấy phép thương mại” và các giấy phép con khác về kỹ thuật, môi trường v.v… Mỗi giấy phép đều có một lý do riêng nhưng chúng tôi tin rằng mỗi giấy phép có một sự thay thế hiệu quả hơn mà doanh nghiệp sẽ không bị chậm trễ hàng tháng để có thể tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Trong lĩnh vực du lịch, ngoài hỗ trợ tài chính đã được đề xuất cho các khách sạn và cơ sở dịch vụ ăn uống bị ảnh hưởng nặng nề, việc hiện đại hóa những yêu cầu về bằng cấp nhằm có thể huy động nhân lực từ nước ngoài vào để khởi động lại ngành cũng quan trọng không kém việc thu hút nhiều doanh nghiệp tham gia ngành này. Vấn đề này cần sự hỗ trợ ở cấp địa phương đối với giấy phép lao động và những yêu cầu khác.
Đối với nhóm vấn đề thứ hai, Luật Môi trường và số lượng lớn các nghị định, thông tư đi kèm cần nỗ lực rất lớn để thực thi. Việc này đòi hỏi cấp Trung ương có hướng dẫn chỉ đạo địa phương làm đúng kèm theo sự minh bạch và trao đổi thông tin tốt với các doanh nghiệp.
Trong lĩnh vực hải quan, cơ chế một cửa quốc gia (NSW) đầy hứa hẹn mang tới một cơ hội tuyệt vời cho Chính phủ bảo đảm quy định chặt chẽ giữa chính quyền Trung ương và địa phương và giữa các Bộ khi nó cung cấp tất cả các thông tin liên quan tại một cửa, bảo đảm tất cả các bên tiếp cận cùng một thông tin và thủ tục, giảm đi những xung đột về quy định giữa nhiều bộ. Tuy nhiên, để cơ chế này thực sự hiệu quả, các bộ cần nhất quán cập nhật thường xuyên sự thay đổi các quy định. Một Nghị định mới yêu cầu các bộ liên quan cập nhật thường xuyên các quy định có thể nâng cao hiệu quả của Cơ chế một cửa quốc gia theo đúng mục đích của nó.
Nhóm vấn đề thứ ba không chỉ liên quan đến sự phục hồi từ dịch bệnh COVID-19 mà còn liên quan đến sự phục hồi tổng thể của nền kinh tế. Một ví dụ quan trọng là quy định pháp luật và dự thảo các biện pháp về thương mại điện tử, sử dụng Internet, địa phương hóa dữ liệu v.v… vẫn còn khoảng cách đáng kể trong cách tiếp cận liên quan đến quy định và thuế.
Một đề xuất khác từ Nhóm công tác Du lịch là khi thực hiện hoãn, giảm thuế được đưa ra trong hai năm qua theo cách không xử phạt những doanh nghiệp không cố ý, ví dụ như việc tỉ lệ thuế giá trị giá tăng cho các sản phẩm trên một hóa đơn có sự khác biệt (như rượu là 10% và đồ ăn là 8%).
Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng ban Pháp chế VCCI: Thời gian qua, Đảng, Nhà nước, Chính phủ Việt Nam rất quan tâm và tích cực thúc đẩy kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững. Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách định hướng phát triển kinh tế theo hướng bền vững, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao chất lượng và hiệu quả đầu tư, chú trọng thu hút các dự án có chất lượng cao. Công tác hoàn thiện thể chế, chính sách những năm vừa qua được tích cực triển khai theo định hướng này, nhiều đạo luật quan trọng như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư và Luật Bảo vệ môi trường, các nghị định hướng dẫn đã theo định hướng phát triển xanh và bảo vệ môi trường.
Việc hiện thực hóa các định hướng chính sách quốc gia nói trên cần sự chung tay của tất cả các bên: chính quyền, cộng đồng doanh nghiệp, người dân, các tổ chức chính trị-xã hội, các tổ chức quốc tế.
Với cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, thách thức hiện nay là không nhỏ:
Thứ nhất, mức độ hiểu biết, quy định môi trường của doanh nghiệp Việt Nam đang rất hạn chế. Khảo sát doanh nghiệp của VCCI cho thấy mặc dù ô nhiễm môi trường ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh song mức độ hiểu biết của doanh nghiệp về các quy định môi trường còn thấp. Chỉ có 31,8% doanh nghiệp tư nhân trong nước cho biết họ hiểu rõ các quy định môi trường, dù đến 68% doanh nghiệp cho biết đã bị ảnh hưởng tiêu cực bởi biến đổi khí hậu.
Thứ hai, mức độ tuân thủ quy định môi trường chưa cao dù đang được cải thiện, các DN Việt Nam hiện nay chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhiều doanh nghiệp chưa nhận thức được trách nhiệm với môi trường, cho rằng quy mô quá nhỏ để gây hại cho môi trường, nhiều doanh nghiệp không có nhân lực am hiểu về pháp luật môi trường trong khi các quy định môi trường còn phức tạp. Chi phí tuân thủ các quy định môi trường còn cao không hợp lý khiến năng lực cạnh tranh của DN bị giảm trước mắt.
Thứ ba, mức độ đầu tư của doanh nghiệp cho đổi mới, thực hành xanh mới ở mức độ khởi đầu. Theo báo cáo năm 2021 của UNDP, ngay cả trong các lĩnh vực thâm dụng năng lượng như sản xuất, vận tải, xây dựng, cũng chỉ có khoảng 1/2 doanh nghiệp áp dụng các giải pháp tiết kiệm năng lượng và tài nguyên.
Để hiện thực hóa các định hướng phát triển và triển khai hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp mà Chính phủ đã đặt ra hướng tới kinh tế xanh và phát triển bền vững, VCCI và cộng đồng doanh nghiệp có một số kiến nghị như sau:
(1) Tăng cường sự tham gia của doanh nghiệp trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật và thực thi pháp luật về môi trường: Thực tế đã cho thấy việc tăng cường tham vấn doanh nghiệp, người dân trong quá trình xây dựng pháp luật giúp cải thiện chất lượng quy định pháp luật. Nhiều nghiên cứu quốc tế đã chứng minh rằng tăng cường sự tham gia của doanh nghiệp trong xây dựng pháp luật sẽ giúp tăng cường mức độ tuân thủ của doanh nghiệp.
(2) Tạo thuận lợi trong tiếp cận thông tin về chính sách, pháp luật về môi trường, phát triển bền vững: Các cơ quan nhà nước cần nâng cao hiệu quả công tác phổ biến các chính sách, quy định để các doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp quy mô siêu nhỏ, nhỏ) dễ dàng tiếp cận thông tin hơn. Cần chú trọng truyền thông chính sách trong lĩnh vực này như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
(3) Xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật về tăng trưởng xanh, khuyến khích, ưu đãi doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ cao, công nghệ sạch: Tiếp tục xây dựng, đa dạng hóa hơn nữa các chính sách để ưu đãi các doanh nghiệp đầu tư theo hướng sử dụng công nghệ cao, công nghệ sạch, ít tiêu hao năng lượng, tài nguyên, phát thải thấp, thân thiện với môi trường. Xây dựng các bộ tiêu chí để sàng lọc, lựa chọn, đánh giá các dự án đầu tư sử dụng công nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường…
(4) Theo dõi, đánh giá thực thi chính sách về bảo vệ môi trường, phát triển xanh, phát triển bền vững ở cấp địa phương. Bên cạnh hoàn thiện khung khổ chính sách thì thúc đẩy thực thi chính sách cũng hết sức quan trọng. VCCI đang xây dựng và dự kiến sẽ công bố Chỉ số Xanh cấp tỉnh (PGI) trong tháng 4 tới. Đây là bộ chỉ số độc lập đánh giá môi trường kinh doanh xanh cấp tỉnh, mức độ thực thi, tuân thủ pháp luật về môi trường, thực trạng ứng dụng công nghệ thân thiện môi trường của các doanh nghiệp tại địa phương, trình độ quản lý và ứng xử với môi trường của doanh nghiệp, mức độ quan tâm, chính sách khuyến khích hoạt động đầu tư xanh của chính quyền địa phương và nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến môi trường.
(5) Tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn cho tăng trưởng xanh cho doanh nghiệp: Theo tính toán của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Thế giới, Việt Nam dự kiến cần khoảng 30 tỷ USD để thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh đến năm 2030, trong đó ngân sách Nhà nước chỉ có thể đáp ứng tối đa 30% nguồn lực. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy trong tăng trưởng xanh nguồn đầu tư tư nhân mới đóng vai trò quyết định. Do đó, các cơ quan nhà nước cần xây dựng cơ chế để thúc đẩy các chương trình tín dụng xanh từ các tổ chức tài chính trong và ngoài nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các công cụ tài chính xanh như tín chỉ các-bon, trái phiếu xanh, thị trường mua bán các-bon…
(6) Tiếp tục đẩy mạnh cải thiện môi trường kinh doanh xanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, với trọng tâm là cải cách về thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp. Tập trung cải cách một số lĩnh vực TTHC còn nhiều phiền hà theo phản ánh từ các doanh nghiệp: đất đai, thuế, bảo hiểm xã hội, phòng cháy, xây dựng, quản lý thị trường, môi trường, kho bạc và lao động… Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành tiếp tục rà soát, tối ưu hóa quy trình thủ tục hành chính liên ngành, đặc biệt là nhóm các thủ tục liên quan tới đầu tư, xây dựng, đất đai, môi trường. Hướng tới việc tạo lập và kết nối liên thông giữa các cơ quan quản lý nhà nước cơ sở dữ liệu doanh nghiệp để đảm bảo công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp thực hiện một cách thống nhất, đồng bộ. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách quy định về điều kiện kinh doanh. Tiếp tục giảm thiểu gánh nặng thanh, kiểm tra doanh nghiệp, theo hướng áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro trong thực hiện thanh tra, kiểm tra. Cải cách mạnh mẽ hơn về kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hoá xuất nhập khẩu.
Cuối cùng, trong bối cảnh thế giới có nhiều yếu tố rất bất ổn, Việt Nam cần đưa ra thông điệp mạnh mẽ về sự cam kết ổn định chính sách trong nước, lấy ổn định chính sách trong nước để bù đắp cho những bất ổn trên thế giới. Đây là nền tảng quan trọng cho sự phát triển bứt phá của Việt Nam trong thời gian tới.
Ông Gabor Fluit, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham): Sứ mệnh của chúng tôi là thúc đẩy thương mại và đầu tư song phương giữa châu Âu và Việt Nam. Với 1.300 thành viên và 9 hiệp hội doanh nghiệp quốc gia, chúng tôi cống hiến hết mình cho mục đích này. Tôi tự hào tiếp bước người tiền nhiệm Alain Cany, người tham gia phái đoàn tháp tùng Ngài Thủ tướng Chính phủ tại COP26 khi Ngài đưa ra cam kết lịch sử của Việt Nam đưa phát thải ròng về “0” vào năm 2050.
Để theo đuổi việc thực hiện đầy đủ sứ mệnh của mình, chúng tôi đã cùng làm việc để xác định các lĩnh vực cần có tiến bộ mạnh mẽ, chia sẻ công nghệ tiên tiến của châu Âu và thu hút đầu tư nước ngoài chất lượng cao.
Hôm nay, tôi rất vui mừng được chia sẻ một số khuyến nghị chính sách để giúp đạt được điều này và mở đường hướng tới sự thịnh vượng xanh và chuyển đổi kinh tế của Việt Nam, đồng thời tận dụng đầy đủ các lợi ích của EVFTA và đẩy nhanh việc phê chuẩn EVIPA của tất cả các quốc gia thành viên EU.
Vấn đề đầu tiên và cũng quan trọng nhất cần thảo luận hôm nay là tăng trưởng xanh. Ngày nay, chúng ta đang trên đỉnh của một cuộc cách mạng xanh và Việt Nam có tiềm năng mở đường tới một tương lai bền vững và thịnh vượng. Ý tưởng này đã khiến EuroCham tổ chức Diễn đàn và Triển lãm Kinh tế Xanh vào cuối năm 2022. Sắp tới, chúng tôi hy vọng sẽ tổ chức sự kiện này một lần nữa vào năm 2024, và có sự hỗ trợ toàn diện từ các cơ quan chức năng của Việt Nam.
Chuẩn bị cho tương lai, việc sử dụng năng lượng tái tạo là nhiệm vụ cấp bách và có ảnh hưởng lớn của chúng ta. Để làm được điều này, Chính phủ nên khuyến khích tất cả các bên tiêu dùng điện đầu tư vào năng lượng tái tạo. Để giảm lượng khí thải carbon và thúc đẩy một tỉ lệ sử dụng năng lượng sạch hơn, điều cần thiết là hoàn thiện Quy hoạch điện VIII và đưa vào một chiến lược bù đắp cho năng lượng từ than.
Với nguồn năng lượng mặt trời và gió dồi dào của Việt Nam, điều quan trọng là phải chuẩn bị cho quá trình chuyển đổi hoàn toàn sang các nguồn năng lượng tái tạo này và việc sử dụng khí tự nhiên làm nhiên liệu chuyển đổi sẽ giúp tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình này. Các vấn đề về rác thải và thiếu nước cũng có thể được giải quyết với mô hình kinh tế tuần hoàn.
Mặc dù có tiến bộ trong việc triển khai luật về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, chúng tôi khuyến nghị Việt Nam nên tăng cường thực thi các quy định về chất thải và thúc đẩy việc dùng nhựa phân hủy cho đến khi nhựa được loại bỏ về cơ bản.
Để hỗ trợ mục tiêu trở thành quốc gia đi đầu trong lĩnh vực khoa học đời sống của Việt Nam, EuroCham nhấn mạnh đến việc tăng cường khả năng tiếp cận dược phẩm và thiết bị y tế thông qua các quy trình quản lý được tối ưu hóa và các thông lệ tốt nhất toàn cầu. Điều này đòi hỏi các chính sách mua sắm và tài trợ dựa trên giá trị phải được sửa đổi bởi Luật Dược. Mặc dù Nghị định 07 và Nghị quyết 30 đã loại bỏ các rào cản và cải thiện việc thanh toán bảo hiểm y tế, nhưng việc Bộ Y tế nhanh chóng phê duyệt cấp phép lưu hành cho các thiết bị y tế loại C và D là rất quan trọng để tiếp tục giảm tình trạng thiếu hụt trang thiết bị và vật tư y tế.
Trong thị trường toàn cầu ngày nay, Việt Nam cũng cần thu hút và giữ chân người tài. Để làm đươc điều đó, các thủ tục giấy phép lao động hiện tại cần được đơn giản hóa. Cần lưu ý rằng đầu tư nước ngoài chất lượng cao là điều cần thiết cho sự thành công của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta không thể thu hút những nhà đầu tư này nếu chúng ta không thể tuyển dụng và giữ chân những người giỏi. Sẽ không hợp lý chút nào khi những người nước ngoài đã sống, làm việc và đầu tư tại Việt Nam trong nhiều năm, đã từng được cấp nhiều giấy phép lao động lại bị từ chối gia hạn giấy phép lao động chỉ vì một số vấn đề nhỏ về thủ tục.
Để khai thác hoàn toàn tiềm năng của lực lượng lao động đa dạng và tài năng của chúng ta, cần đơn giản hóa các rào cản về thủ tục hành chính và mở đường dẫn đến thành công. Điều này có thể đạt được thông qua sửa đổi Bộ luật Lao động và Nghị định 152. Điều này cho phép Việt Nam sử dụng tối đa lực lượng lao động đa dạng, tài năng, thu hút đầu tư nước ngoài chất lượng cao
Tiếp theo, cảnh quan, thiên nhiên tươi đẹp cùng di sản văn hóa giàu có khiến Việt Nam trở thành một điểm đến hàng đầu cho khách du lịch. Để khai thác tối đa tiềm năng này, việc miễn thị thực một tháng nên được mở rộng cho tất cả các nước EU và các nước có nhiều khách du lịch khác. Hơn nữa, việc thực hiện một chương trình riêng cấp thị thực cho những người về hưu tự túc trong 3 đến 6 tháng có thể là chất xúc tác cho ngành du lịch phát triển mạnh, giống như sự thành công của các quốc gia láng giềng cạnh chúng ta.
Tiếp theo, điều quan trọng đối với Chính phủ là tiếp tục ưu tiên chuyển đổi số toàn diện. Để làm được điều này, điều quan trọng là phải tạo ra sự tương thích thực tế cho các doanh nghiệp châu Âu đang hoạt động tại Việt Nam để tuân thủ cả Luật An ninh mạng của Việt Nam và Quy định Bảo vệ dữ liệu chung của Châu Âu (GDPR). Điều này đòi hỏi có sự hài hòa giữa luật bảo vệ dữ liệu cá nhân của Việt Nam với luật pháp quốc tế để tạo điều kiện trao đổi dữ liệu giữa các công ty Việt Nam và các công ty đa quốc gia. Chúng tôi cũng khuyến nghị rằng chữ ký sống và nhận dạng cá nhân nên được thay thế bằng chứng nhận chữ ký điện tử được quốc tế công nhận.
Ngoài ra, việc áp dụng các chính sách ưu tiên đám mây đổi mới phải đi kèm với các biện pháp bảo mật, tuân thủ và xác nhận được quốc tế công nhận.
Về thuế, để khắc phục tác động của thuế suất tối thiểu toàn cầu (GMT) sắp tới, chúng tôi đề xuất các biện pháp khuyến khích đầu tư mà có thể bao gồm miễn thuế nhập khẩu, kéo dài thời gian miễn thuế đất và ưu đãi dựa trên chi phí, đặc biệt là chi phí nghiên cứu và phát triển.
Về thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), chúng ta phải bảo đảm rằng việc xóa bỏ thuế nhập khẩu theo EVFTA không bị mất tác dụng do thuế TTĐB lại tăng để bù lại, vì nó sẽ làm suy giảm mục đích thúc đẩy thương mại song phương của hiệp định thương mại tự do.
EuroCham tự hào sát cánh cùng các đối tác Việt Nam, đoàn kết trong sứ mệnh xây dựng một tương lai tươi sáng hơn. Chúng tôi tin tưởng chắc chắn rằng bằng cách hợp tác với nhau, chúng ta có thể tạo ra một tương lai tươi sáng cho mọi người dân Việt Nam. Người xưa có câu “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Bằng cách cùng hợp tác và kết hợp các nỗ lực của mình, chúng ta có thể đạt được những điều tuyệt vời và xây dựng một tương lai bền vững cho các thế hệ mai sau. Chúng ta hãy tiếp tục làm việc cùng nhau và tạo dựng mối quan hệ đối tác bền vững với thời gian vì lợi ích của Việt Nam và người dân Việt Nam.
Ông Greg Testerman, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam (AmCham): AmCham và các công ty hội viên xin chúc mừng Chính phủ Việt Nam vì những thành công trong quản lý kinh tế và phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch. Thành công của Việt Nam trong việc kiểm soát lạm phát và duy trì sự ổn định tương đối của đồng Việt Nam rất đáng ghi nhận so với các nước trong khu vực.
Năm 2022, chúng tôi có những thành công ấn tượng tại Việt Nam và đặc biệt chúng tôi đề ra tính cấp bách và rất muốn có được những cơ chế hỗ trợ cho nguồn năng lượng chuyển đổi từ khí đốt cho tới điện gió ngoài khơi và những giải pháp giúp chúng ta có được công nghệ lưu trữ pin.
Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên gia hạn đóng góp do quốc gia tự quyết định đối với Công ước Khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi Khí hậu năm 2020, cam kết giảm phát thải khí nhà kính. Để đạt được mục tiêu phát thải ròng carbon bằng 0 vào năm 2050, cần phải ưu tiên các nguồn năng lượng có giá cả phải chăng và bền vững về mặt xã hội. Quá trình này sẽ yêu cầu hỗ trợ tài chính và kỹ thuật từ các nguồn lực bên ngoài.
Phát huy những cam kết tại COP26, việc ký kết Chương trình Đối tác Chuyển dịch Năng lượng Công bằng (JETP) giữa Nhóm Đối tác Quốc tế và Việt Nam vào tháng 12/2022 phản ánh sự hỗ trợ thiết thực đối với các mục tiêu khí hậu đầy tham vọng của quốc gia, bao gồm cả việc tăng đáng kể tỉ trọng năng lượng tái tạo đến năm 2030.
Những cơ chế mà chúng tôi đưa ra về mua bán điện trực tiếp rất quan trọng để giảm được carbon cũng như có được tăng trưởng bền vững. Và điều quan trọng nữa trong việc thu hút đầu tư mới đối với năng lượng tái tạo là có được những dự án có khả năng cấp vốn ngân hàng năm 2023. Đấy là những tiêu chuẩn mà chúng tôi khuyến nghị đưa ra.
AmCham muốn có những khung pháp lý đầy đủ cho nền kinh tế số, ví dụ như sự tiếp cận đối với dịch vụ toàn cầu. Bảo vệ dữ liệu rất quan trọng để bảo đảm được tính cạnh tranh của nền kinh tế. Việt Nam cần ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng số, điện toán đám mây và trung tâm dữ liệu. Một số thủ tục hiện nay còn vướng mắc về thiết bị kỹ thuật số vẫn là rào cản và chúng tôi rất muốn có được sự đơn giản hóa thủ tục nhập khẩu cũng như những chứng chỉ cần thiết từ những quốc gia đáng tin cậy.
Các thành viên của chúng tôi, đặc biệt trong lĩnh vực dược, gặp phải sự trì hoãn trong việc có được những thủ tục để cấp phép lưu hành thuốc. AmCham hoan nghênh hành động gần đây của Quốc hội thông qua Nghị quyết 80 cho phép tự động gia hạn giấy đăng ký lưu hành đối với các loại thuốc và vaccine hết hạn vào đầu năm nay. Điều này đã giúp giảm thiểu sự gián đoạn trong việc cung cấp các loại thuốc và thiết bị y tế quan trọng. Vào tháng 2 vừa qua, chúng tôi rất vui mừng khi Bộ Y tế công bố và ban hành Quyết định 62/QĐ-QLD gia hạn giấy đăng ký lưu hành cho nhiều loại thuốc đến hết năm 2024. Chúng tôi khuyến nghị cần thực hiện giải pháp bền vững hơn để giải quyết những thách thức đang diễn ra này, bao gồm sửa đổi Luật Dược, dỡ bỏ các hạn chế về lưu kho và vận chuyển đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, từng bước mở cửa phân phối thuốc cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để tăng khả năng tiếp cận nguồn cung ứng thuốc, loại bỏ các yêu cầu đặc thù của quốc gia để hài hòa quy trình của Việt Nam với các tiêu chuẩn khu vực và toàn cầu. Các chính sách phù hợp cũng như cam kết của Chính phủ trong việc thực hiện các chính sách đó đóng vai trò rất quan trọng cho sự phát triển của ngành dược phẩm.
Các yêu cầu cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng. Nhiều tổ chức nước ngoài đang có kế hoạch thành lập đại diện thương mại tại Việt Nam chưa có người bảo lãnh để xin cấp thị thực vào Việt Nam cho lao động nước ngoài của mình. Chúng tôi đề xuất đơn giản hóa các thủ tục hành chính về cấp giấy phép lao động.
Hoa Kỳ và Việt Nam đã đạt được thỏa thuận về hiệp định thuế trước những thay đổi về Luật Thuế của Hoa Kỳ vào năm 2019. Cả hai quốc gia đang trong quá trình tiến tới ký kết một thỏa thuận sửa đổi một phần nhỏ và chúng tôi hy vọng sẽ kết thúc đàm phán trong năm nay. Điều này rất quan trọng đối với công dân và các công ty Hoa Kỳ đang làm việc tại Việt Nam.
Về thuế đối với đồ uống có đường, thuế đối với nhà thầu nước ngoài hoạt động trên nền tảng kỹ thuật số, chúng tôi đánh giá cao những đối thoại từ phía Chính phủ.
Chúng tôi coi trọng quan hệ đối tác và đối thoại với Chính phủ và đánh giá cao những nỗ lực của Việt Nam trong cải cách hành chính nhằm cải thiện môi trường pháp lý trong nước. Mặc dù chúng tôi ghi nhận việc loại bỏ và đơn giản hóa một số thủ tục hành chính đang được thực hiện, các luật và quy định gần đây vẫn tiếp tục đưa ra các thủ tục hành chính mới như cấp phép, phê duyệt và các yêu cầu báo cáo cồng kềnh. Chúng tôi khuyến nghị xem xét cẩn trọng và tránh mọi gánh nặng hành chính bổ sung nào có thể trong các dự thảo luật và quy định.
Với tư cách là những nhà đầu tư lớn ở thị trường Việt Nam, các doanh nghiệp Hoa Kỳ luôn kỳ vọng Việt Nam sẽ tiếp tục thành công. Các vấn đề nêu ra trong báo cáo này nêu rõ niềm tin của chúng tôi rằng có thể hỗ trợ môi trường kinh doanh tốt nhất bằng các hành động giúp tăng năng suất và giảm chi phí cũng như rủi ro khi kinh doanh tại Việt Nam. Quan trọng hơn, việc giảm chi phí và sự phức tạp trong kinh doanh sẽ mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp do Việt Nam làm chủ, phần đông là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cũng như thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp kinh doanh, từ đó sẽ bảo đảm khả năng cạnh tranh và tăng trưởng trong tương lai của Việt Nam.
AmCham cam kết đạt được tăng trưởng bền vững phù hợp với các giá trị Môi trường, Xã hội và Quản trị. Chúng tôi sẽ tiếp tục đóng vai trò xây dựng, không chỉ để khiếu nại mà để xác định và thực hiện các giải pháp, đồng thời tích cực ủng hộ cho một môi trường kinh doanh tốt hơn và khu vực tư nhân phát triển mạnh hơn ở Việt Nam.
Ông Hong Sun, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam (KoCham): Tôi xin trình bày ngắn gọn một số vướng mắc và kiến nghị như sau:
Thứ nhất, liên quan đến quy trình cấp Giấy phép lao động, KOCHAM đã nhận được phản ánh vướng mắc về quá trình từ lúc nộp hồ sơ đến khi được cấp giấy phép mất rất nhiều thời gian. Ngay cả sau khi nộp hồ sơ lần đầu, nhiều trường hợp phải bổ sung, sửa đổi hồ sơ dẫn đến thông thường phải mất 2-3 tháng mới được cấp Giấy phép lao động, thậm chí có những trường hợp mất hơn 6 tháng do phải thực hiện các thủ tục bổ sung. Trường hợp phải bổ sung hồ sơ, doanh nghiệp sẽ xử lý nhanh hơn nếu được hướng dẫn nhất quán ngay từ đầu.
Do đó, Hiệp hội kính đề nghị cơ quan liên quan ban hành hướng dẫn chính xác, nhất quán liên quan đến hồ sơ phải nộp. Kể từ tháng 2/2021, điều kiện cấp giấy phép lao động đã được thắt chặt hơn theo quy định của Nghị định số 152/2020/NĐ-CP. Điều này dẫn đến việc người lao động sẽ không được cấp ‘Giấy phép lao động theo diện chuyên gia’ nếu kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực tương ứng không đủ từ 3 năm trở lên.
Ngoài ra, liên quan đến cộng đồng Hàn Quốc, những học viên hoàn thành Khóa đào tạo nhà quản lý và nghiệp vụ trong thời gian 1 năm theo Chương trình K-Move School do Chính phủ Hàn Quốc tổ chức nhằm hỗ trợ các nhân lực trẻ không được cấp ‘Giấy phép lao động diện chuyên gia’ do không đáp ứng đủ số năm kinh nghiệm làm việc. Dù thời gian đào tạo của Chương trình K-Move School ngắn, nhưng những người được lựa chọn đào tạo nghiệp vụ tập trung theo Chương trình này có đầy đủ năng lực ngang tầm chuyên gia. Do đó, Chúng tôi kính đề nghị Chính phủ Việt Nam hỗ trợ cấp ‘Giấy phép lao động diện chuyên gia’ cho những người đã hoàn thành Chương trình này. Trường hợp việc cấp ‘Giấy phép lao động diện chuyên gia’ gặp khó khăn, đề nghị Chính phủ tạo điều kiện để họ được cấp ‘Giấy phép lao động diện giám đốc điều hành’ do đa phần họ đảm nhận vai trò Người đứng đầu trong doanh nghiệp.
Cần có hướng dẫn cụ thể về văn bản, giấy tờ xin cấp Giấy phép lao động diện nhà quản lý và chuyên gia, đồng thời cần xem xét để thống nhất các văn bản, giấy tờ ở tất cả các địa phương.
Thứ hai, liên quan đến việc thắt chặt quy định của Luận Phòng cháy, chữa cháy, thời gian qua xảy ra một số vụ hỏa hoạn tại doanh nghiệp địa phương và cơ sở kinh doanh rượu ở trung tâm thành phố, gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản. Do đó, Chính phủ Việt Nam đã chỉ đạo quyết liệt về việc thắt chặt các quy đinh, quản lý liên quan đến phòng cháy chữa cháy. Theo đó, doanh nghiệp phải thực hiện biện pháp điều chỉnh đối với hoạt động xây dựng công trình và cấp phép phòng cháy chữa cháy được tiến hành theo các quy định và thông lệ cũ. Hiện nay, việc xây dựng mới nhà máy hoặc mở rộng nhà máy cũng phải áp dụng quy định nghiêm ngặt hơn.
KoCham đã tiếp nhận nhiều nội dung vướng mắc trong quá trình đầu tư mới và đầu tư mở rộng của doanh nghiệp do yêu cầu thực hiện quy định mới nghiêm ngặt liên quan đến cấp phép (quản lý) phòng cháy chữa cháy. Vấn đề phát sinh gần đây là khi mở rộng nhà máy đang hoạt động, giấy phép phòng cháy chữa cháy và giấy phép hoàn công đã được cấp khi xây dựng nhà máy ban đầu mâu thuẫn với quy định quản lý hiện hành đã được thắt chặt.
Thứ ba, về Thuế tối thiểu toàn cầu, chúng tôi đề nghị sớm đưa vào hoạt động lực lược biệt phái của chính phủ liên quan đến thuế tối thiểu toàn cầu, đồng thời mong muốn nhanh chóng triển khai các nghiên cứu lập pháp và thủ tục lập pháp.
Thứ tư, nâng cao tiêu chí đánh giá tác động môi trường. Theo Luật Bảo vệ Môi trường Việt Nam sửa đổi, khi cơ quan phê duyệt đánh giá tác động môi trường được thay đổi từ chính quyền cấp tỉnh hiện tại thành cơ quan chính quyền Trung ương tùy thuộc vào khả năng phát sinh chất ô nhiễm và khối lượng sản xuất, thời gian và chi phí cấp phép lập báo cáo đánh giá tác động môi trường tăng lên, tạo gánh nặng cho hoạt động kinh doanh.
Do không được phép tiến hành các hoạt động sản xuất trước khi được cấp phép nên có lo ngại rằng sẽ tốn quá nhiều thời gian và chi phí trong quá trình đánh giá tác động môi trường. Để tham khảo, chúng tôi đã tìm hiểu thấy cần xin phép lại đánh giá tác động môi trường từ chính quyền Trung ương, tư vấn của doanh nghiệp chuyên nghiệp (2-3 tháng) → Nộp hồ sơ và xem xét (2-3 tháng) → Phê duyệt (3-4 tháng). Trong quá trình đánh giá tác động môi trường, đề nghị chính quyền Trung ương điều chỉnh một cách sát thực tế các tiêu chí thẩm định.
Ông Nagaoka Teketoshi, Chủ tịch Hiệp hội Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (JCCI) tại Việt Nam: Chúng ta đã chứng kiến sự cải thiện đáng kể dưới sự lãnh đạo mạnh mẽ của Ngài Thủ tướng. Sau đây, chúng tôi mong muốn đề xuất ba điểm để đóng góp thêm cho chủ đề “Phục hồi kinh tế và Phát triển chuỗi cung ứng trong bối cảnh bình thường mới” tại Việt Nam trong thời kỳ hậu COVID.
Trước hết, xin vui lòng xem xét vận hành hệ thống linh hoạt như cho vay ngoại tệ của các tổ chức tài chính trong Việt Nam để các công ty trong nước và các công ty liên kết nước ngoài có thể dễ dàng sử dụng các nguồn vốn trung và dài hạn chất lượng cao ở nước ngoài.
Hơn nữa, chúng tôi đặc biệt khuyến nghị việc triển khai các hoạt động kế toán cho ngân hàng để cải thiện tài chính và dòng tiền của các công ty tư nhân, đẩy mạnh chuyển đổi số trong các hoạt động thuế và hải quan không chỉ ở các thành phố lớn mà còn ở mỗi địa phương.
Thứ hai là phát triển của cơ sở hạ tầng năng lượng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế cao ở Việt Nam. VBF và JCCI đã đề xuất với Bộ trưởng Bộ Công Thương về dự thảo tổng sơ đồ phát triển điện VIII. Trong đó, chúng tôi mong muốn hợp tác thông qua xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm giúp công tác điện ổn định và chuyển đổi năng lượng thực tế.
Thứ ba, tăng cường chuỗi cung ứng cần tích cực cải thiện cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải; bao gồm: điện, đường và cảng; từ quan điểm chung đến dài hạn. Về sự phát triển này, chúng tôi mong muốn rằng cả khu vực nhà nước và tư nhân đều chia sẻ rủi ro theo cơ chế đầu tư theo phương thức đối tác công tư PPP. Tài chính được thiết lập kịp thời và đầu tư được thực hiện.
JCCI tuân thủ luật PPP, có hiệu lực vào tháng 1/2021 và tham gia sâu hơn vào đầu tư theo phương thức PPP. Tuy nhiên, cần phải làm rõ vấn đề bảo lãnh Chính phủ và chi tiết của hợp đồng mua bán điện (đối với các dự án điện) để đảm bảo khả năng ngân hàng PPP và các pháp lệnh liên quan để cơ cấu tài chính suôn sẻ từ cơ quan tín dụng, xuất khẩu và các ngân hàng thương mại. Chúng tôi chân thành đề nghị Ngài Thủ tướng hết sức hỗ trợ hiện thực hóa môi trường đầu tư, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển thuận lợi.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng mong muốn Ngài Thủ tướng lưu tâm đến tầm quan trọng của chuyển đổi số và bảo vệ dữ liệu cá nhân phù hợp. Chuyển đổi số là chìa khóa để đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa của Việt Nam.
Chúng tôi rất vui được hợp tác với Việt Nam để xây dựng khuôn khổ chính sách hợp lý theo Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương CPTPPP. Về vấn đề này, chúng tôi mong Thủ tướng giúp đỡ và xem xét các đề xuất của JCCI và các nhà đầu tư nước ngoài khác đối với nghị định dự thảo về bảo vệ dữ liệu cá nhân.
Tầm quan trọng của Việt Nam lại một lần nữa được nhấn mạnh, trong năm 2023 sẽ là giai đoạn quan trọng để Việt Nam trở thành nước phát triển và có thu nhập cao vào năm 2045. Dưới sự lãnh đạo mạnh mẽ của Ngài Thủ tướng, chúng tôi rất mong muốn được chứng kiến sự tiếp tục của chính sách “Sống chung với COVID-19” và bước ngoặc quan trọng trong thời kỳ hậu COVID-19.
Ông Kenneth Atkinson, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Anh quốc tại Việt Nam: Nhân dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Vương quốc Anh và Việt Nam và là năm đầu tiên thực hiện Hiệp định Thương mại Tự do, chúng tôi rất vui khi kim ngạch thương mại hai chiều đã tăng trưởng mạnh trên 16% dù chịu tác động của đại dịch.
Doanh nghiệp Anh mong muốn các hoạt động thương mại, đầu tư sẽ tiếp tục tăng trưởng và Vương quốc Anh sẽ sớm gia nhập Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, nhằm thúc đẩy hơn nữa thương mại Anh-Việt Nam và tạo tiền đề cho các chuyến thăm song phương cấp cao.
Nhân cơ hội này, Hiệp hội một lần nữa xin hoan nghênh cam kết đưa mức phát thải ròng bằng 0 mà Việt Nam đưa ra tại COP26 cũng như những nỗ lực của Ngài Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành để hướng tới mục tiêu này. Đó là cơ sở để doanh nghiệp Anh đang tăng cường đầu tư vào năng lượng tái tạo tại Việt Nam, điển hình là các dự án điện gió ngoài khơi, cũng là lĩnh vực mà Vương quốc Anh là một trong những quốc gia đi đầu.
Giống như nhiều đơn vị khác, Hiệp hội Doanh nghiệp Anh quốc tại Việt Nam luôn mong muốn Việt Nam sớm hoàn thiện Quy hoạch điện 8, trong đó ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo để giảm thiểu tác động tiêu cực của sản xuất điện đối với môi trường.
Chúng tôi rất vui khi chứng kiến Việt Nam và các đối tác quốc tế, bao gồm Liên minh châu Âu, Chính phủ các nước: Vương quốc Anh, Pháp, Đức, Mỹ, Italy, Canada, Nhật Bản, Đan Mạch và Na Uy, đã đạt được thỏa thuận lịch sử về Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng vào ngày 14/12/2022. Theo ước tính, nguồn lực tài chính cần thiết để thực hiện mục tiêu thỏa thuận vào khoảng 15 – 16 tỷ USD mỗi năm cho đến năm 2030. Đây là con số tương đối lớn, đòi hỏi phải có sự phối hợp công-tư.
Doanh nghiệp Anh quốc đã nhìn nhận rõ và hành động cụ thể hơn theo định hướng của Chính phủ. Một số ngân hàng đã cam kết hỗ trợ thu xếp nguồn vốn trực tiếp và gián tiếp cho các dự án, doanh nghiệp bền vững tại Việt Nam (Ngân hàng Standard Chartered đã ký Biên bản ghi nhớ cam kết tài trợ 8,5 tỷ USD và ngân hàng HSBC đã cam kết tài trợ 12 tỷ USD đến năm 2030).
Quyết định sớm mở cửa đường biên giới của Việt Nam có vai trò rất quan trọng, đặc biệt giúp doanh nghiệp nói chung phục hồi sau giai đoạn 2020-2021. Tuy nhiên, một vấn đề lớn hơn mà nhà đầu tư từ Vương quốc Anh cũng như các quốc gia khác đang gặp phải là việc áp dụng nghiêm ngặt các quy định liên quan đến thị thực, giấy phép lao động và thẻ tạm trú cho người lao động cũng như nhà đầu tư nước ngoài. Điều này khiến một bộ phận các nhà đầu tư đang mất niềm tin vào cam kết của chính phủ Việt Nam về việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài và tạo điều kiện cho lao động nước ngoài được nhập cảnh, làm việc tại các doanh nghiệp Anh quốc.
Trong suốt giai đoạn đại dịch diễn ra, chúng ta đều nhận rõ y tế là một trong những lĩnh vực có tác động to lớn đến xã hội và nền kinh tế. Đây cũng là lĩnh vực mà Việt Nam và Vương quốc Anh đã xây dựng mối quan hệ đối tác sâu rộng và bền vững. Chúng tôi tin tưởng rằng Việt Nam có nhiềm tiềm năng để trở thành trung tâm khoa học đời sống tại khu vực Đông Nam Á, một trung tâm R&D của khu vực và một trung tâm sản xuất thuốc tiên tiến trong tương lai gần, nếu Việt Nam xây dựng, thực hiện hiệu quả các chính sách thu hút đầu tư. Những chỉ tiêu quan trọng bao gồm cải thiện khả năng tiếp cận của người dân với các loại thuốc tiên tiến, thúc đẩy y tế số, khuyến khích thử nghiệm lâm sàng tại Việt Nam, cũng như tăng cường chuyển giao công nghệ để sản xuất thuốc trong nước.
Chúng tôi vui mừng khi khả năng tiếp cận đã được mở rộng và rất kỳ vọng vào những điều chỉnh trong hệ thống luật, bao gồm sửa đổi Luật Dược, Luật Bảo hiểm Y tế, Luật Đấu thầu, Luật Giá và Luật Bảo vệ Người tiêu dùng, đẩy nhanh việc sửa đổi các quy định về quảng cáo mỹ phẩm để đảm bảo các quy định của Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế. Chúng tôi thực sự hy vọng rằng những điều chỉnh này sẽ tăng cường hơn nữa khả năng tiếp cận thuốc của người dân, thông qua các quy trình đơn giản, công bằng hơn trong đăng ký thuốc, đấu thầu, thanh toán và thực thi hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ.
Giáo dục luôn là lĩnh vực ưu tiên hàng đầu trong quan hệ đối tác chiến lược giữa Vương quốc Anh và Việt Nam. Tuy nhiên, thủ tục xin cấp phép thành lập, vận hành các cơ sở giáo dục còn kéo dài, phức tạp hay các đơn vị quản lý khác nhau còn chưa hành động phối hợp, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển và độ mở của lĩnh vực này với doanh nghiệp quốc tế.
Cuối cùng, doanh nghiệp Anh quốc có nhiều tiềm năng đóng góp vào quá trình phục hồi và tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực. Chìa khóa để tối ưu khả năng đóng góp này chính là các chính sách hiệu quả, nhất quán để doanh nghiệp có thể tăng trưởng và phát triển ổn định.
Ông David Whitehead, thành viên Ban lãnh đạo Auscham, đại diện Hiệp hội Thành viên liên kết: Tôi đến từ Auscham và hôm nay tôi vinh dự đại diện cho Hiệp hội Thành viên Liên kết của Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam.
Về mặt cá nhân, chúng tôi không có sức mạnh kinh tế và số lượng như các Phòng thành viên lớn của Hiệp hội, nhưng chúng tôi có tổng cộng 9 Phòng Thương mại và Hiệp hội Doanh nghiệp với tổng số thành viên khoảng 4.500, đại diện cho đầu tư trực tiếp nước ngoài trị giá hàng tỷ USD vào Việt Nam kể từ năm 1998.
Đại dịch COVID-19 khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn. Vào năm 2022, chúng ta chứng kiến giá cước vận chuyển, nhiên liệu và chi phí vận chuyển, cũng như chi phí sản xuất nói chung tiếp tục tăng.
Để tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, bao gồm tiếp tục cải cách hành chính, với các chức năng chung và hành chính được tối ưu hóa về tốc độ và tính linh hoạt bằng cách loại bỏ các rào cản xảy ra giữa các bộ phận khác nhau, là một yêu cầu cấp thiết, điều này thúc đẩy sự phối hợp giữa các bộ phận tốt hơn và cho phép các nhà lãnh đạo sắp xếp lại tổ chức hiệu quả hơn. Do đó việc sử dụng cơ chế một cửa trong tất cả các dịch vụ của chính phủ là những vấn đề cần được quan tâm hơn đối với tất cả các doanh nghiệp nước ngoài.
Về chi phí hoạt động như chi phí sản xuất do áp lực lạm phát và chi phí nguyên vật liệu tăng cao hơn đã ảnh hưởng trực tiếp đến lĩnh vực sản xuất nói riêng. Tuy nhiên, trong vài tháng cuối năm 2022 và quý I/2023 đã có dấu hiệu phục hồi, cụ thể là sự quay trở lại của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, mang đến cơ hội cho các ngành dịch vụ đặc biệt.
Trong năm 2023, chúng ta cần giải quyết triệt để một số vấn đề quan trọng liên quan đến kinh doanh, trong đó quan trọng là trách nhiệm và quản lý môi trường hiệu quả; yêu cầu ESG và sử dụng các phương pháp xử lý “xanh”. Tất cả chúng ta đều nhận thức được nhu cầu hợp tác với Chính phủ Việt Nam để thúc đẩy Tăng trưởng Xanh trong tất cả các ngành công nghiệp của chúng ta.
Theo tôi, sẽ rất hữu ích nếu Chính phủ xem xét giảm hoặc loại bỏ các loại thuế và phí nhiên liệu; đẩy nhanh thủ tục thông quan, nâng cao năng lực xếp dỡ hàng hóa thông qua nâng cao năng lực tại các cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu chính. Bên cạnh đó, chúng tôi mong có sự hỗ trợ của Chính phủ đối với các doanh nghiệp đầu ngành và doanh nghiệp FDI trong các lĩnh vực quan trọng như hàng không, vận tải, xây dựng và phân phối.
Do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, Tổ chức Lao động Quốc tế ước tính tỉ lệ thất nghiệp sẽ gia tăng. Do đó, chúng ta cần tập trung giải quyết vấn đề về việc làm và đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn cho các dự án trọng điểm để giải quyết vấn đề này.
Bên cạnh đó, chúng ta cần tăng cường đầu tư cho các dự án giao thông và cơ sở hạ tầng, phát triển các tuyến đường nối các trung tâm dân cư lớn và ưu tiên các dự án khí hậu, môi trường và an ninh lương thực, chẳng hạn như chống xâm nhập mặn ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Dịch COVID-19 đã cho thấy một nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào chuỗi giá trị ở các quốc gia khác sẽ dễ bị tổn thương một khi chuỗi cung ứng bị gián đoạn. Sự gián đoạn đáng kể đối với chuỗi cung ứng, bao gồm sự chậm trễ tại cảng và tăng giá cước vận tải và các dịch vụ Hải quan đã ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các công ty trên thị trường quốc tế và tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Sự gián đoạn nghiêm trọng đối với các dịch vụ giáo dục đã ảnh hưởng đến nhiều trường cao đẳng và đại học của Australia, với sự sụt giảm lớn về số lượng sinh viên Việt Nam theo học tại các trường đại học và trường học của Australia tại Việt Nam. Đặc biệt, là sự sụt giảm lớn du học sinh. Chi phí gia tăng cũng đang ảnh hưởng đến việc sản xuất dược phẩm, làm giảm cơ hội cho các cộng đồng và gia đình nghèo tiếp cận với thuốc giá cả phải chăng cần thiết. Do đó, cần tiếp tục miễn giảm thuế, hỗ trợ thuế cho doanh nghiệp FDI; để khuyến khích các mục nhập quốc tế mới, cũng như bảo đảm tính liên tục của các hoạt động kinh doanh hiện có.
Hiện nay, để phát triển kinh tế xã hội, việc hồi sinh du lịch và kinh doanh khách sạn là cần thiết để thu hút khách du lịch, giúp ngành du lịch phát triển. Hiện có 25 quốc gia miễn thị thực cho du lịch ngắn hạn khi nhập cảnh, xuất cảnh và quá cảnh Việt Nam, thường là 15 ngày. Chúng tôi mong muốn Chính phủ sẽ xem xét khả năng cấp miễn thị thực cho người mang hộ chiếu Australia phù hợp với 25 quốc gia đã được miễn thị thực.
Ông John Rockhold, Trưởng Nhóm công tác VBF về Điện và Năng lượng: Trong một báo cáo gần đây của một nhóm các nhà khoa học nổi tiếng đã kết luận rằng CO2 có sẵn trong khí quyển sẽ tạo ra 1 nhiệt độ là 7-10 độ C. Các nước phát triển chịu trách nhiệm cho khoảng một nửa CO2 trong khí quyển hiện nay.
Tuy nhiên, lượng khí thải từ các quốc gia này đang ổn định hoặc giảm, trong khi lượng khí thải từ các nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ… đang gia tăng một cách nhanh chóng. Đây là lý do phần lớn nỗ lực giảm phát thải tập trung vào các nền kinh tế đang phát triển, đặc biệt là ở châu Á, nơi các nguồn phát thải đang gia tăng.
Lượng phát thải khí nhà kính của Việt Nam chỉ chiếm khoảng 0,8% lượng phát thải toàn cầu, tương đối nhỏ nhưng đang tăng lên và ước tính năm 2022, tương đương khoảng 3,5 tấn mỗi người.
Ngành điện Việt Nam chiếm khoảng một nửa lượng khí thải CO2 này. Theo sau là lĩnh vực công nghiệp với khoảng 30%, vận tải ở mức 16% và xây dựng là 6%. Nông nghiệp chỉ đóng góp 1% lượng khí thải carbon nhưng là nguồn chính tạo ra khí mê-tan và nitơ điôxít, cả hai đều tác động mạnh mẽ vào sự nóng lên toàn cầu trong thời gian ngắn. Nông nghiệp chiếm khoảng một phần ba tổng lượng khí thải nhà kính.
Ngân hàng Thế giới ước tính rằng chỉ riêng tác động của việc tăng nhiệt độ có thể khiến Việt Nam thiệt hại tổng cộng 12-14,5% GDP, hoặc chi phí tích lũy từ 400-523 tỷ USD vào năm 2050.
Việc giảm những chi phí đó thông qua việc thích ứng và giảm thiểu sẽ đòi hỏi khoảng 368 tỷ USD trong 18 năm tới. Con số này bao gồm khoảng 254 tỷ đô la để thích ứng với biến đổi khí hậu, bao gồm 219 tỷ đô la để nâng cấp tài sản tư nhân và cơ sở hạ tầng công cộng và 35 tỷ đô la cho các chương trình xã hội, và 114 tỷ đô la, bao gồm 64 tỷ đô la để giải quyết nhu cầu năng lượng tức thời, 17 tỷ đô la để giảm phát thải carbon trong công nghiệp, giao thông vận tải và nông nghiệp, và 33 tỷ đô la cho các chương trình xã hội hỗ trợ để giảm phát thải và đạt mục tiêu phát thải ròng bằng không của Việt Nam.
Do đó, câu hỏi đặt ra là làm thế nào để huy động đầu tư vào quá trình giảm thải carbon có thể giảm chi phí dài hạn liên quan đến biến đổi khí hậu và đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0 của Việt Nam.
Trên toàn cầu, một loạt các công cụ tài chính đang nổi lên. Bao gồm tái chế doanh thu thông qua định giá carbon và thị trường carbon; trái phiếu xanh và quỹ tài chính xanh; liên doanh đầu tư vào cơ sở hạ tầng xanh quy mô lớn; quỹ đổi mới xanh; các công ty dịch vụ năng lượng tái tạo, đơn vị phân loại đầu tư xanh, và nhiều công ty khác.
Trong vài năm tới, Việt Nam có cơ hội huy động vốn toàn cầu để tài trợ cho quá trình chuyển đổi của mình, nhưng để làm được điều đó đòi hỏi sự phát triển nhanh chóng của cơ sở hạ tầng tài chính và pháp lý.
Chính phủ Việt Nam đã cam kết thực hiện một thách thức kép là giảm lượng khí thải carbon xuống mức 0 vào năm 2050, đồng thời đạt được vị thế nền kinh tế có thu nhập cao vào năm 2045.
Để đặt tham vọng của đất nước vào viễn cảnh đạt được vị thế thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam đang cố gắng thực hiện trong hai mươi năm điều mà Hàn Quốc đã mất hơn 40 năm để làm… nhưng không có sự trợ giúp của nhiên liệu hóa thạch và công nghệ sử dụng nhiều carbon.
Bất chấp những thách thức dường như không thể vượt qua, đặc biệt là khi đi kèm với tác động bất ổn tiềm tàng của biến đổi khí hậu, Việt Nam có thể đạt được những mục tiêu này. Tuy nhiên, để làm được điều đó, Chính phủ Việt Nam cần đảm bảo quá trình giảm thải cacbon (và chuẩn bị ứng phó với biến đổi khí hậu nói chung) vẫn được đặt lên hàng đầu trong chương trình nghị sự chính sách của quốc gia.
Việt Nam chưa bao giờ ở một vị trí tốt hơn để thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân và hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang một tương lai giảm thiểu phát thải cacbon. Tuy nhiên, trong khi Việt Nam đang đi đúng hướng trong việc thực hiện một cơ cấu pháp lý nhằm ngăn chặn sự gia tăng carbon hóa và suy thoái môi trường, Việt Nam sẽ cần phải tăng đáng kể sự thuận tiện mà khu vực tư nhân có thể đầu tư, phát triển và tiếp cận các tài sản, các dự án và sáng kiến đang chuẩn bị cho đất nước trở thành một quốc gia giảm thiểu phát thải cacbon và có khả năng phục hồi môi trường.
Ông Daniel Lee, Trưởng nhóm Công tác Kinh tế số (DEWG): Có được sự có mặt của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thì cách làm tốt nhất là thúc đẩy khu vực tư nhân ở Việt Nam và các công nghệ chuyển giao trong lĩnh vực dữ liệu lớn (Big Data), trí thông minh nhân tạo (AI) và qua đó khi chúng ta kết nối các doanh nghiệp này, người lao động Việt Nam sẽ có kỹ năng mới, đạt ngưỡng cạnh tranh toàn cầu và cung cấp được những dịch vụ có thể xuất khẩu về sau. Để làm được điều này, chúng ta cần nguồn lực từ các trường đại học và đặc biệt là hợp tác giữa doanh nghiệp và trường đại học. Điều này sẽ đẩy nhanh được quá trình cung cấp nguồn lao động đã được qua đào tạo, khi đó sẽ rất tốt cho các doanh nghiệp nước ngoài với các dự án khuyến khích khác nhau.
Thứ hai là môi trường internet. Intertnet là yếu tố xương sống của nền kinh tế, tới 73% dân số Việt Nam hiện nay đang dùng internet hằng ngày. Đây là vị trí rất cao trên thế giới (đứng thứ 13), nhưng có một số vấn đề mà chúng ta cũng đã nhìn thấy, ví dụ như tốc độ đường truyền cần nhanh hơn, ổn định hơn và chúng tôi đánh giá cao vai trò tiên phong của Chính phủ đang tiếp tục hợp tác với các công ty telecom để xây dựng những cổng kết nối tốc độ cao trong khu vực.
Thứ ba là về IT. Quy định chi tiết một số điều của Luật An ninh mạng mới được đưa ra có hiệu lực trong thời điểm tháng 10 vừa qua với mục đích bảo đảm tầm quan trọng của việc bảo vệ an ninh mạng (trong Nghị định 53/2022/NĐ-CP). Luật An ninh mạng được ban hành hơn 4 năm rồi, tuy nhiên việc địa phương hóa hệ thống số cũng chưa rõ, dữ liệu số được địa phương hóa cũng chưa rõ. Hiện nay, khu vực tư nhân đang dựa vào điện toán đám mây và lưu trữ đám mây nhưng những dịch vụ đám mây như vậy lại được coi là rủi ro cho các doanh nghiệp và quyết định đầu tư bị chậm trễ. Các công ty công nghệ khi muốn mở các trung tâm nghiên cứu phát triển tại Việt Nam luôn quan ngại hoạt đông nghiên cứu phát triển của họ có được bảo vệ hay không. Vì thế, việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cũng cần phải được bao gồm trong nội dung này.
Thứ tư, dịch vụ điện toán đám mây và phần mềm vẫn là những nội dung đang được thảo luận. Rất mong Chính phủ làm việc với các chuyên gia để đưa ra được việc phân loại hợp lý cho những dịch vụ đám mây tại Việt Nam.
Cuối cùng, để có được sự tham gia của các công ty, nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam nhiều hơn nữa thì sẽ phải xây dựng đội ngũ lao động có kiến thức. Kết nối giữa trường đại học và doanh nghiệp sẽ mang lại những nhân lực, qua đó chúng ta cũng có thể bảo vệ được những yếu tố về mặt văn hóa qua những quy định rõ ràng.
Bà Michele We, Trưởng Nhóm công tác ngân hàng: Chúng tôi nhìn nhận các thách thức của năm 2023 đối với nền kinh tế Việt Nam đến từ thế giới với các cú sốc địa chính trị và kinh tế, lạm phát gia tăng trên quy mô toàn cầu và thắt chặt tiền tệ, các biến động khác như xung đột Ukraina/Nga. Tại Việt Nam, áp lực lạm phát tăng cao, tỉ giá tăng, hoạt động tín dụng; tác động từ các biến động trên thị trường tài chính và bất động sản ảnh hưởng tới chất lượng tài sản, thanh khoản, nhu cầu tín dụng so với rủi ro và kiểm soát tỉ lệ an toàn ngân hàng của ngân hàng.
Đối với kế hoạch chuyển đổi số và cam kết bền vững của Việt Nam, sẽ cần đến định hướng của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong việc xây dựng Chính phủ điện tử và chương trình chuyển đổi số quốc gia; sự hỗ trợ của các tổ chức tín dụng và các cam kết tài trợ tài chính bền vững; xây dựng chiến lược quản lý rủi ro môi trường và xã hội với các nội dung môi trường xanh được lồng ghép trong quy trình thẩm định tín dụng và quy trình – sổ tay quản lý/kiểm soát rủi ro ESG; huy động vốn và nguồn lực cho phát triển bền vững tại Việt Nam.
Để thực hiện những mục tiêu này, Nhóm công tác Ngân hàng khuyến nghị Việt Nam cần lộ trình nhanh chóng để áp dụng năng lượng xanh và khuôn khổ tài chính xanh phù hợp cho các dự án có khả năng vay vốn ngân hàng như: phát triển các công cụ tài chính chuyển tiếp, chuẩn bị cho báo cáo môi trường – quản trị – xã hội (ESG); bắt đầu chuyển đổi danh mục đầu tư, các yếu tố trong quá trình chuyển đổi năng lượng công bằng.
Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng mong muốn Chính phủ thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính, hỗ trợ tài trợ chuyển đổi với một số khuyến nghị như hướng dẫn chi tiết hơn về định nghĩa xanh, tiêu chí đánh giá – tiêu chuẩn báo cáo, phát triển thị trường trái phiếu xanh; đòn bẩy về tài chính hỗn hợp. Điều này có nghĩa là Quy hoạch Điện VIII cần cung cấp lộ trình rõ ràng của các dự án, một chính sách cụ thể về đảm bảo tỷ giá hối đoái, khả năng tài trợ năng lượng nhiều hơn đáng kể và Hợp đồng mua bán điện đạt tiêu chuẩn vay vốn ngân hàng.
Việt Nam cũng cần phối hợp làm việc giữa các bộ ngành với Nhóm các nước đối tác quốc tế (IPG) và Liên minh tài chính Glasgow cho Net Zero (GFANZ) dưới sự bảo trợ của JETP trong Kế hoạch huy động nguồn lực cho Việt Nam.
Nhóm công tác ngân hàng xin đóng góp 4 kiến nghị:
Một là, Việt Nam cần nỗ lực gấp đôi để đẩy mạnh triển khai số hóa gắn với Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử và chương trình chuyển đổi số hướng tới tăng trưởng xanh và biến đổi khí hậu.
Việc đồng bộ hóa các quy định cũng đặc biệt quan trọng để thúc đẩy toàn diện quá trình số hóa, đòi hỏi sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý (Bộ Công an, Bộ TT&TT, NHNN…) để hoàn thiện khung pháp lý quản lý rủi ro liên quan đến an ninh mạng, định danh điện tử, xác thực điện tử, giao dịch điện tử, bảo vệ dữ liệu cá nhân, ưu tiên cho phép thực hiện toàn bộ quy trình định danh eKYC, công nhận chữ ký điện tử/định danh điện tử trong các thủ tục pháp lý và nghĩa vụ lưu trữ dữ liệu cụ thể.
Hai là, về tăng trưởng xanh, ngành tài chính – ngân hàng phối hợp với cộng đồng doanh nghiệp hướng tới thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam. Tiến trình này sẽ tăng tốc khi các đối tác trong khuôn khổ Thỏa thuận Hợp tác Chuyển dịch năng lượng công bằng (JETP) tiếp tục làm việc để tạo điều kiện lưu chuyển dòng tài chính khu vực tư nhân.
Ba là, đối với lĩnh vực bất động sản/thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Các dấu hiệu suy yếu trong tăng trưởng của thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã đặt ra một thách thức đối với các doanh nghiệp bất động sản trong việc huy động vốn và có thể dẫn đến biến động hệ thống tài chính trong ngắn hạn. Do đó, Chính phủ cần đề ra một kế hoạch phục hồi thị trường với sự hỗ trợ của Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước để bảo đảm hoạt động an toàn của hệ thống tài chính.
Động lực tăng trưởng (bao gồm cả kiểm soát tín dụng): Mặc dù lạm phát của Việt Nam đã được kiểm soát cho đến nay, những áp lực về giá cả vẫn là một thách thức lớn trong năm 2023 do tác động từ những yếu tố ảnh hưởng đến lượng cầu. Do đó, chúng tôi kiến nghị Ngân hàng Nhà nước luôn thận trọng với lạm phát, sự suy yếu của đồng nội tệ (VND) và các dấu hiệu bất ổn tài chính, cùng với mục tiêu tăng trưởng tín dụng phù hợp, tập trung cho đầu tư, xuất khẩu và tiêu dùng.
Cuối cùng, chúng tôi mong muốn Ngân hàng Nhà nước phân bổ tín dụng hợp lý để đảm bảo nhu cầu của các ngân hàng cũng như đáp ứng việc tiêu dùng của người dân.
Ông Đào Ngọc Dung, Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội: Đối với Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, để hiện thực hóa các thủ tục phát triển chuyển đổi số, cũng như chuyển đổi cơ chế, chúng tôi sẽ tập trung cao cho việc phát triển nguồn nhân lực.
Đối với lực lượng lao động trong nước, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về phát triển thị trường lao đồng linh hoạt, bền vững và hội nhập quốc tế. Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ ban hành những chuyên đề đột phá chuyên về khoa học công nghệ, gắn với thực tiễn đời sống.
Về đào tạo nhân lực cao, đặc biệt về chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, nòng cốt là chúng tôi lấy nguồn nhân lực từ hệ thống giáo dục là các trường đại học, đào tạo nghề chất lượng cao để thực thi.
Đối với lực lượng lao động nước ngoài ở Việt Nam, 3 đối tượng cần quan tâm là chuyên gia, quản lý và người lao động trình độ cao. Chúng tôi xác định đây là lực lượng rất quan trọng. Chủ trương của Chính phủ Việt Nam là luôn trân quý và sự dụng có hiệu quả lực lượng này, vừa phục vụ yêu cầu trong nước, vừa tạo điều kiện cho các nhà đầu tư phát triển.
Chúng tôi luôn lắng nghe các ý kiến góp ý, và sẽ tiếp tục hoàn thiện, bổ sung và sửa Nghị định 152 vào cuối quý III/2023 theo hướng bảo đảm tiêu chuẩn, xác định rõ 3 đối tượng chuyên gia, quản lý và người lao động trình độ cao theo hướng cởi mở hơn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các đối tượng này.
Về trình độ, thủ tục, hồ sơ, phấn đấu đơn giản hóa các quy trình, thủ tục, thời gian, phân cấp ngắn nhất để tạo điều kiện nhanh nhất có thể cho những người lao động nước ngoài.
Trong quý II, chúng tôi sẽ lấy ý kiến đề xuất cụ thể của các hiệp hội, các doanh nghiệp, các đơn vị… từ đó đưa ra những phương án, giải pháp khả thi, thiết thực và thuận lợi.
Trong 3 đối tượng chuyên gia, quản lý và người lao động trình độ cao thì chuyên gia, quản lý sẽ được ưu tiên hàng đầu.
Đối với những trường hợp trước đây đã được cấp phép, nay chuyển sang đối tượng khác, chẳng hạn, được cấp phép 5 năm, nhưng nay chuyển sang là chuyên gia, không đủ điều kiện, không đủ tiêu chuẩn, thì vẫn có thể xem xét, hạn chế việc cấp phép lại trên tinh thần tạo mở, tạo điều kiện cho đối tượng này.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Đặng Hoàng An: Chuẩn bị cho diễn đàn này, chúng tôi nhận được 26 kiến nghị trong đó có 16 kiến nghị liên quan đến năng lượng, 10 kiến nghị liên quan đến các lĩnh vực quản lý khác của Bộ Công Thương.
Ngày hôm nay, quý vị có nêu thêm các kiến nghị khác liên quan đến năng lượng. Tôi có thể trả lời tóm tắt như thế này:
Trước hết, việc phát triển năng lượng một cách bền vững, bảo đảm nhu cầu năng lượng của nền kinh tế và người dân được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ rất quan tâm. Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đang yêu cầu Bộ Công Thương sớm hoàn thiện Quy hoạch Điện VIII và Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Các mục tiêu chính trong 2 quy hoạch quan trọng này bao gồm: Một là bảo đảm an ninh năng lượng; hai là thực hiện quá trình chuyển đổi năng lượng một cách mạnh mẽ để đạt mục tiêu các cam kết vào 2050. Và một mục tiêu rất quan trọng mà Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo là cần phải bảo đảm tiếp cận năng lượng của nền kinh tế và người dân với một chi phí hợp lý.
Đây là 3 mục tiêu song hành và rất thách thức. Tuy nhiên chúng tôi đang xây dựng các chương trình rất nghiêm túc để thực hiện các mục tiêu này. Các chủ đề mà quý vị nêu lên bao gồm chính sách phát triển năng lượng tái tạo sắp tới, trong đó có điện gió ngoài khơi hay chính sách liên quan đến pin lưu trữ năng lượng, công nghệ Hydrogen, công nghệ Amoniac… và các chính sách cho tiết kiệm năng lượng hiệu quả, điện mặt trời áp mái, tự sản tự tiêu… Đây đều là các vấn đề mà Thủ tướng Chính phủ đang chỉ đạo Bộ Công Thương xây dựng và trong thời gian tới có 3 dự luật rất quan trọng mà Thủ tướng đang chỉ đạo chúng tôi làm: Thứ nhất là sửa đổi Luật Điện lực, hai là sửa đổi Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả và ba là xây dựng mới một luật về năng lượng tái tạo và phát triển ngành công nghiệp năng lượng tái tạo nội địa để bảo đảm nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế và giảm giá thành sản xuất điện năng.
Có thể khẳng định rằng tất cả kiến nghị của quý vị hôm nay, trong rất nhiều diễn đàn song phương, đa phương chúng tôi cũng đều đã trao đổi, ví dụ như trong các chương trình hợp tác giữa Việt Nam và Đan Mạch, Việt Nam và EU… Trong thời gian tới, Bộ Công Thương sẵn sàng trao đổi trực tiếp với quý vị để giải thích thêm về các chính sách và các chỉ đạo của Chính phủ mà chúng tôi đang thực hiện.
Ông Phạm Tiến Dũng – Phó Thống đốc NHNN Việt Nam: NHNN trân trọng cảm ơn WB, các tổ chức quốc tế đã hợp tác hỗ trợ chúng tôi trong thời gian vừa qua. Đặc biệt là các vấn đề mới trong điều hành tài chính tiền tệ, trong phát triển đồng tiền kỹ thuật số ngân hàng trung ương cũng như các hoạt động giúp đỡ Việt Nam như phòng chống rửa tiền, hoạt động thanh toán cũng như Fintech.
Quay trở lại vấn đề các đại biểu quan tâm đối với ngành ngân hàng, chúng tôi nhận được 34 kiến nghị của Hiệp hội.
Trong đó có 12 kiến nghị đã được xử lý xong, 9 kiến nghị liên quan đến bộ ngành NHNN đang xử lý và 13 kiến nghị chúng tôi đã làm việc trực tiếp với nhóm ngân hàng và đang tích cực xử lý. Trong đó đặc biệt lưu tâm đến các vấn đề nhóm ngân hàng có nêu là chuyển đối số. Đây là vấn đề được Thủ tướng Chính phủ đặc biệt quan tâm và chỉ đạo trong suốt thời gian vừa qua.
Ngành ngân hàng là ngành đầu tiên ban hành Thông tư về eKYC, về xác thực điện tử. Đây là chìa khóa để thực hiện chuyển đổi số và thực hiện ngân hàng số.
NHNN đã ban hành xong Thông tư về bảo lãnh điện tử và sắp tới đây, Thống đốc cũng chỉ đạo việc cho vay trên môi trường điện tử mà các ngân hàng khá quan tâm. Chúng tôi đang phối hợp với các bộ ngành xử lý vấn đề giao dịch điện tử, chữ ký điện tử cho hoạt động ngân hàng và hy vọng sẽ thu được kết quả tích cực đáp ứng được các yêu cầu của hệ thống ngân hàng. Chúng ta biết rằng, nhiều ngân hàng hiện nay đã đưa được trên 90% giao dịch hoạt động trên nền tảng số.
Thứ hai, liên quan đến tín dụng xanh, Thống đốc NHNN đã ban hành Chỉ thị nêu rõ tập trung xây dựng cơ sở pháp lý để phát triển tín dụng xanh, xây dựng kế hoạch hành động của ngành ngân hàng để triển khai Chiến lược quốc gia về tín dụng xanh. Trong đó ưu tiên tập trung vào việc phối hợp với các tổ chức quốc tế để huy động các nguồn vốn quốc tế phục vụ phát triển tín dụng xanh.
Thứ ba là vấn đề điều hành chính sách tiền tệ. Vừa qua, NHNN đã ban hành quyết định hạ lãi suất điều hành xuống 1% và hạ lãi suất cho vay qua đêm 1%. Đây là 1 tín hiệu khá tốt với thị trường. Thông qua việc hạ lãi suất này, nhiều ngân hàng đã hạ lãi suất huy động và chúng ta thấy có cơ sở để hạ lãi suất cho vay, tạo động lực tốt cho phát triển sản xuất kinh doanh.
Đối với vấn đề chính sách tín dụng, Thống đốc NHNN có chỉ thị ưu tiên cấp tín dụng cho những lĩnh vực ưu tiên, trong đó có tín dụng xanh. Theo chỉ đạo của Thủ tướng và NHNN, chúng tôi sẽ cố gắng đáp ứng tốt nhất về vốn ngân hàng cho các hoạt động phát triển kinh tế.
Đấy là các vấn đề lớn, còn các vấn đề các ngân hàng và nhóm ngân hàng quan tâm thì chúng tôi cam kết trong thời gian tới sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ để xử lý các vấn đề liên quan trực tiếp đến ngành ngân hàng và phối hợp với các bộ ngành xử lý các vấn đề liên quan. Hiện nay, NHNN và Hiệp hội Ngân hàng, nhóm công tác ngân hàng thường xuyên làm việc với Bộ TT&TT, Ủy ban Khoa học công nghệ của Quốc hội để bàn bạc trao đổi về hợp đồng điện tử. Đây là vấn đề tác động khá lớn đến ngân hàng.
Còn các vấn đề khác, chúng tôi cam kết sát cánh đồng hành cùng ngân hàng, các nhóm nhân hàng tiếp tục giải quyết.
Ông Trần Quý Kiên, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường: Với 28 vấn đề được nêu tại phiên họp kỹ thuật của Diễn đàn VBF vào ngày 18/02, Bộ đã cử các cán bộ có trách nhiệm trực tiếp ghi nhận và trao đổi để tháo gỡ.
Nhân diễn đàn hôm nay, chúng tôi xin được cung cấp thêm một số nội dung như sau: Hiện nay, mặc dù thời hạn góp với dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã kết thúc, nhưng theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, chúng tôi vẫn hoan nghênh và tiếp thu toàn bộ các ý kiến của các tổ chức, cá nhân để dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) dự kiến trình Quốc hội vào phiên họp cuối năm nay sẽ là một dự thảo có tính khả thi, có chất lượng tốt nhất, trong đó có những quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tiếp cận tài nguyên đất sẽ có tính khả thi và cởi mở hơn.
Nội dung thứ hai, liên quan đến vấn đề tài nguyên nước, theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ năm 2023 này, chúng tôi dự kiến sẽ xây dựng và trình dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) nhằm khắc phục những tồn tại, bất cập hiện nay. Trong đó có các quy định về phân bổ, sử dụng nguồn nước một cách hài hòa, hợp lý, tiết kiệm, đảm bảo mục tiêu an ninh nguồn nước phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội.
Một nội dung nữa mà diễn đàn có phản ánh trong lĩnh vực khai thác khoáng sản có vấn đề thuế tài nguyên cũng như là tiền cấp quyền khai thác khoáng sản ở Việt Nam còn chưa cạnh tranh, chúng tôi cũng ghi nhận lĩnh vực này đúng là thuế tài nguyên và tiền cấp quyền khai thác khoáng sản ở Việt Nam nằm trong nhóm nước có mức thu còn cao, thiếu tính cạnh tranh và Dự án Luật Khoáng sản (sửa đổi), theo chỉ đạo của Chính phủ đang được xây dựng và dự kiến trình Quốc hội ban hành vào năm 2024 sẽ có những quy định để làm sao thu hút được các nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân, đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty lớn của quốc tế vào lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh và tiềm năng, ví dụ như khai thác bauxite ở Tây Nguyên, khai thác titan ở miền Trung và Bình Thuận, khai thác đất hiếm tại khu vực Tây Bắc của Việt Nam…
Một lĩnh vực cũng có nhiều ý kiến quan tâm đó là lĩnh vực môi trường và biến đổi khí hậu, thì trong lĩnh vực này theo chỉ đạo của Chính phủ, chúng tôi cũng đang hoàn thiện các văn bản hướng dẫn để triển khai Luật Bảo vệ môi trường 2020, trong đó có một số vấn đề nổi lên trong Nghị định 08/2022/NĐ-CP, theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ đang khẩn trương rà soát toàn diện để sẵn sàng có thể bổ sung, sửa đổi các nội dung của Nghị định này nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Liên quan đến vấn đề biến đổi khí hậu, tại phiên họp kĩ thuật chúng tôi đã nhận được các khuyến nghị tập trung vào các vấn đề lớn: Một là vấn đề thu hút nguồn tài chính từ khu vực tư nhân để thực hiện mục tiêu giảm phát thải carbon, chúng tôi dự tính theo kịch bản phát triển trong điều kiện thông thường thì trong 10 đến 20 năm tới, Việt Nam sẽ phát triển theo hướng năm sau cao hơn năm trước. Trong bối cảnh đó, để thực hiện mục tiêu lượng phát thải đạt đỉnh vào năm 2035 và hướng tới phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, theo tính toán, Việt Nam sẽ cần nguồn vốn rất lớn khoảng 380 tỷ USD. Đây là một nguồn lực rất lớn chủ yếu đến từ doanh nghiệp trong nước và ngoài nước. Chúng tôi cũng đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành để có chính sách phù hợp nhằm loại bỏ các rủi ro pháp lý, đồng thời phân bổ các rủi ro khác một cách hiệu quả để giúp cho việc đầu tư của doanh nghiệp vào giảm phát thải khí nhà kính có chi phí thấp hơn.
Về vấn đề thuế carbon có thể tạo nguồn tài chính cho Quỹ tài chính xanh trong khu vực, chúng tôi tiếp nhận ý kiến này với quan điểm rất là tích cực. Hiện nay, theo chỉ đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường đang phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng và có thể vận hành thị trường carbon trong nước, hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính bắt đầu từ năm 2025.
Cuối cùng là vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế biển, theo kế hoạch trong 6 tháng đầu năm 2023, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ xin Chính phủ báo cáo Quốc hội thông qua Quy hoạch không gian biển quốc gia giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó có nhiều nội dung có tính khả thi nhằm khuyến khích phát triển các nguồn tài nguyên biển, trong đó có nguồn năng lượng tái tạo đó là năng lượng điện gió ngoài khơi.
Ngành tài nguyên và môi trường cam kết luôn lắng nghe, đồng hành cùng cộng đồng doanh nghiệp trong nước và ngoài nước để hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường, phát triển bền vững hướng tới nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
Ông Phạm Đức Long, Thứ trưởng Bộ TT&TT: Trong khuôn khổ Diễn đàn hôm nay, tôi xin được phản hồi một số kiến nghị của các doanh nghiệp.
Thứ nhất, về phát triển hạ tầng số, chúng tôi ủng hộ quan điểm phát triển trung tâm dữ liệu và điện toán đám mây nhưng vẫn cần đảm bảo các yêu cầu, tiêu chuẩn, an toàn an ninh của người tiêu dùng. Dự thảo luật viễn thông sửa đổi khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài tham gia xây dựng dịch vụ điện toán đám mây và trung tâ dữ liệu tại Việt Nam. Dự thảo không hạn chế tỉ lệ vốn góp của các doanh nghiệp nước ngoài.
Từ góc độ đầu tư trung tâm dữ liệu và điện toán đám mây của Chính phủ, Việt Nam đã xây dựng quy hoạch hạ tầng ngành thông tin và truyền thông. Trong đó, quy hoạch không gian trung tâm dữ liệu quốc gia bao gồm tối thiểu 5 trung tâm dữ liệu quốc gia chuyển đổi số ở cả 3 miền Bắc-Trung-Nam, tối thiểu 6 trung tâm dữ liệu vùng. Sau khi quy hoạch được phê duyệt, các nhà đầu tư căn cứ vào quy hoạch này có thể tham gia đầu tư phát triển hạ tầng thông tin truyền thông.
Hạ tầng trung tâm dữ liệu và điện toán đám mây là hạ tầng số quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, kinh tế số và chuyển đổi số. Vì vậy cần được quản lý và thúc đẩy phát triển.
Đối với dịch vụ OTT (dịch vụ truyền thông được cung cấp trực tiếp đến người xem thông qua internet), hiện nay đang cung cấp và thay thế dịch vụ viễn thông cơ bản trên internet. Do vậy cũng cần mạng lưới phù hợp với các dịch vụ viễn thông khác. Chúng tôi đã nghiên cứu kinh nghiệm của châu Âu, Hàn Quốc, Trung Quốc về quy định OTT đối với dịch vụ viễn thông và quản lý theo pháp luật viễn thông.
Dự thảo Luật Viễn thông sửa đổi quy định có điều kiện với các nhà cung cấp dịch vụ trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây, OTT trong nước và trên thế giới nhằm đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng và bảo vệ an ninh quốc gia. Nghị định hướng dẫn luật sẽ nêu chi tiết về các quy định liên quan đến dịch vụ điện toán đám mây để các nhà đầu tư yên tâm. Chúng tôi mong nhận được sự góp ý của các doanh nghiệp để luật được hoàn thiện.
Về internet, hiện nay 100% hộ kinh doanh, tổ chức, doanh nghiệp và 75% hộ gia đình đã có cáp quang đến nhà và trong năm nay chúng tôi phấn đấu 85% hộ có cáp quang đến nhà. Tốc độ internet của Việt Nam hiện nay đứng thứ 43 trên thế giới, chúng tôi sẽ nỗ lực nâng cao tốc độ như đề nghị của quý doanh nghiệp. Vừa qua sau sự cố nghiêm trọng ảnh hưởng đến tốc độ internet, Bộ TT&TT đã yêu cầu các doanh nghiệp khẩn trương khắc phục, dự kiến cuối tháng 3 các tuyến cáp quang sẽ được sửa chữa xong. Đến quý III/2023, Việt Nam sẽ có thêm 2 tuyến cáp quang biển mới. Đồng thời, Bộ TT&TT cũng sẽ đầu tư từ 2-4 tuyến cáp quang biển vào năm 2025 do các doanh nghiệp Việt Nam làm chủ đầu tư và sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài.
Về kinh doanh dịch vụ viễn thông trên nền tảng kỹ thuật số, hiện nay Việt Nam không có bất kỳ rào cản kỹ thuật nào đối với các nền tảng kỹ thuật số đang hoạt động tại Việt Nam chỉ yêu cầu các nền tảng này tuân thủ pháp luật Việt Nam.
Về phát triển Chính phủ điện tử, môi trường pháp lý đang được hoàn thiện theo hướng kết nối người dân, doanh nghiệp đến các bộ, ngành, Chính phủ một cách thuận lợi nhất.
Về Luật Giao dịch điện tử sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4 vào tháng 10/2023 tới đây.
Về quy định không gian số an toàn cho người dân, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 964 về an toàn, an ninh mạng trong đó có các giải pháp quan trọng: Kinh phí bảo đảm an toàn, an ninh mạng đạt tối thiểu 10% kinh phí chi cho khoa học công nghệ, chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin. Các dự án ứng dụng CNTT bắt buộc phải có giải pháp đảm bảo an ninh mạng, trong quá trình đầu tư, an toàn thông tin phải được bảo đảm qua 4 lớp.
Chiến lược phát triển kinh tế số, xã hội số gắn với phát triển vùng, quản lý rủi ro trong quá trình chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nguời dân, doanh nghiệp, chú trọng bảo vệ trẻ em và các đối tượng dễ bị tổn thương trên môi trường mạng.
Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Thuế Đặng Ngọc Minh: Kỷ niệm 25 năm Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam lựa chọn chủ đề thúc đẩy tăng trưởng xanh có ý nghĩa quan trọng cho phát triển kinh tế của Việt Nam.
Để tăng trưởng xanh bền vững, Việt Nam cần nguồn lực tài chính rất lớn từ trong nước và đầu tư từ nước ngoài.
Năm 2017, Việt Nam tham gia là thành viên thứ 100 cùng hành động BEPS với mục tiêu cải cách hệ thống thuế: Chống sói mòn nguồn thu, chống trốn thuế toàn cầu, lành mạnh hóa môi trường đầu tư, khơi thông các nguồn thu tiềm năng trong bối cảnh chuyển đổi kinh tế, đầu tư toàn cầu và đặc biệt từ sự phát triển mạnh mẽ nền kinh tế số toàn thế giới.
Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách, giải pháp quan trọng cho nguồn thu nội địa quan trọng như khoản thu từ đất đai, chuyển nhượng bất động sản, hay các nguồn thu từ thương mại điện tử bao gồm hoạt động dịch vụ kinh tế số xuyên biên giới, tạo nguồn lực tài chính quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội.
Trong chương trình BEPS, đặc biệt trụ cột 2, Việt Nam theo dõi sát động thái các nước trên thế giới và đã có báo cáo, kiến nghị cụ thể tới Chính phủ. Chính phủ đã có tổ công tác chuyên về trụ cột 2 với sự tham gia của các bộ ngành và cộng đồng doanh nghiệp, đã đưa ra được quy chế hoạt động. Bộ Tài chính cũng đã có dự thảo các biện pháp, giải pháp trước mắt và lâu dài ứng phó, tận dụng cơ hội từ các cải cách chính sách thuế toàn cầu.
Về các giải pháp chính sách thuế, trước mắc chúng tôi dự kiến sẽ đưa mức thuế tối thiểu 15% đối với các doanh nghiệp và các tập đoàn chịu ảnh hưởng của thuế tối thiểu theo khung của OECD. Tiếp theo là ban hành các quy định, quy chế về khấu trừ thuế tại nguồn tại Việt Nam.
Về trung hạn, kiến nghị sửa đổi các ưu đãi thuế bảo vệ nguồn thu trong nước; ban hành thuế tối thiểu 15%; ban hành ưu đãi thuế theo hướng hỗ trợ các chi phí đầu tư, đào tạo lao động; hỗ trợ cho tăng trưởng xanh và bảo vệ môi trường…
Bộ Tài chính cũng ghi nhận những kiến nghị của Hiệp hội về hướng dẫn thuế đối với các dịch vụ số xuyên biên giới, khẳng định chủ quyền quản lý thuế và tuân thủ theo các công nghệ quốc tế.
Bộ Tài chính luôn hướng tới việc bảo vệ sức khỏe, bảo vệ môi trường, cũng như bảo vệ cho người tiêu dung hợp lý, bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp trong nước, cũng như doanh nghiệp nước ngoài.
Bộ Tài chính mong muốn các tổ chức quốc tế hỗ trợ cho Chính phủ Việt Nam nghiên cứu các biện pháp qua thuế nhằm bảo vệ môi trường như thuế các-bon, cắt giảm khí thải.
Nhân dịp này, chúng tôi mong muốn các Hiệp hội tiếp tục đồng hành cùng Bộ Tài chính để tham gia xây dựng các chính sách kiến nghị, cùng hành động để phát triển kinh tế xã hội.
Phát biểu tại Diễn đàn, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đánh giá cao chủ đề của Diễn đàn rất thiết thực trong bối cảnh Việt Nam đang chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng từ “nâu” sang “xanh”, phát triển dựa vào kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức; đồng thời, xác định kinh tế xanh, chuyển đổi xanh là động lực tăng trưởng quan trọng trong dài hạn, dựa vào khoa học và công nghệ để phát triển đất nước.
“Các phát biểu tại Diễn đàn cho thấy chúng ta rất hiểu nhau, rất tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhau để cùng vượt qua khó khăn và cùng nhau làm tốt hơn trong thời gian tới. Qua nhiều lần tham dự Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, tôi luôn cảm nhận được ngọn lửa nhiệt huyết của cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước, sự chân thành, tin cậy giữa hai bên”, Thủ tướng phát biểu.
Thủ tướng đánh giá 25 năm qua, Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam đã đồng hành cùng với Chính phủ Việt Nam, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam và có nhiều đóng góp quan trọng vào công cuộc phát triển KT-XH, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam.
Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng trân trọng cảm ơn và đánh giá cao đóng góp của Diễn đàn và cộng đồng doanh nghiệp vì những đóng góp quan trọng để thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh và bền vững, hội nhập sâu rộng, thực chất, hiệu quả với kinh tế khu vực và toàn cầu. Sau hơn 35 năm đổi mới, quy mô kinh tế Việt Nam đạt hơn 400 tỷ USD, GDP bình quân đầu người đạt hơn 4.100 USD, Việt Nam vào nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế.
Nhân dịp này, Thủ tướng cũng cảm ơn các doanh nghiệp đã hỗ trợ Việt Nam trong phòng chống dịch COVID-19, kiểm soát dịch bệnh thành công, thực hiện hiệu quả chiến lược vaccine, đưa ra các công thức, trụ cột phòng chống dịch, chuyển hướng thích ứng an toàn linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh COVID-19, mở cửa sớm nền kinh tế.
Dưới dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự ủng hộ của nhân dân, sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, năm 2022 và những tháng đầu năm 2023, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng được thúc đẩy, các cân đối lớn được bảo đảm. An sinh xã hội, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, quốc phòng-an ninh được củng cố, đối ngoại và hội nhập tiếp tục được mở rộng, tăng cường…
Vốn thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài năm 2022 đạt hơn 22 tỷ USD, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm 2021, cho thấy niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài. Đến nay, Việt Nam đã tham gia vào 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương với gần 60 nền kinh tế trên thế giới, trong đó có 15 FTA đã được ký kết và 02 FTA đang trong quá trình đàm phán.
Những nền tảng phát triển, các giải pháp căn cơ, lâu dài để cải thiện môi trường kinh doanh
Chia sẻ với các đại biểu về các nền tảng phát triển của Việt Nam, Thủ tướng cho biết Việt Nam đang tập trung xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm xuyên suốt là lấy con người làm trung tâm, làm chủ thể, là mục tiêu và là động lực, nguồn lực cho sự phát triển.
Việt Nam kiên định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, là bạn bè tốt, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả. Xác định nguồn lực bên trong (gồm con người, tài nguyên thiên nhiên và truyền thống lịch sử văn hóa) là cơ bản, chiến lược, lâu dài, quyết định; nguồn lực bên ngoài (thể chế, tài chính, công nghệ, quản trị tiên tiến và trình độ nguồn nhân lực) là quan trọng và đột phá.
Việt Nam đang tập trung thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược về thể chế, kết cấu hạ tầng và nguồn nhân lực.
Về thể chế, Việt Nam tập trung rà soát các vướng mắc pháp lý, sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật, nhất là các vấn đề thực tiễn mới phát sinh, cần điều chỉnh để tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách, tạo thuận lợi cho phát triển KT-XH; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, chuyển đổi số trên nền tảng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và các cơ sở dữ liệu khác.
Về kết cấu hạ tầng, Việt Nam tập trung cho hạ tầng chiến lược, nhất là hạ tầng giao thông, đặc biệt là hệ thống đường bộ cao tốc, chuẩn bị phát triển đường sắt tốc độ cao, xây dựng các sân bay, cảng biển, đường thủy nội địa; hạ tầng năng lượng, hạ tầng số, hạ tầng ứng phó biến đổi khí hậu… từ đó góp phần giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp và nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp, hàng hóa.
Về nguồn nhân lực, Việt Nam thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thúc đẩy khởi nghiệp; chú trọng đào tạo nhân lực trong các lĩnh vực chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, công nghệ cao…
Việt Nam tiếp tục xây dựng, phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; tăng cường xây dựng thương hiệu quốc gia, thương hiệu doanh nghiệp, thương hiệu sản phẩm; đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; triển khai công tác quy hoạch; cải cách thủ tục hành chính, tinh gọn và trong sạch bộ máy, giảm phiền hà cho người dân và doanh nghiệp.
Thủ tướng cho rằng, đây là những các giải pháp căn cơ, lâu dài để tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận. Tuy nhiên, theo quy luật, các hoạt động kinh doanh có lúc thuận lợi nhưng cũng có lúc khó khăn, thua lỗ, điều quan trọng nhất là về tổng thể, lâu dài, nhà đầu tư bảo toàn được vốn, mở rộng được sản xuất, kinh doanh, đạt được lợi nhuận.
Tránh tình trạng “tăng trưởng trước, dọn dẹp sau”
Chia sẻ thêm về chủ đề của Diễn đàn, Thủ tướng nhấn mạnh tăng trưởng xanh cũng là một chủ trương lớn và quan trọng của Đảng và Nhà nước Việt Nam nhằm đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững và góp phần quan trọng thực hiện Chiến lược phát triển KTXH 2021-2030.
Trước xu hướng phát triển bền vững trên cả 3 trụ cột kinh tế, xã hội và môi trường, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh của Việt Nam đã được ban hành và thực thi với nhiều kết quả bước đầu đáng ghi nhận, đóng góp tích cực vào nỗ lực của cộng đồng quốc tế trong ứng phó với biến đổi khí hậu.
Tại Hội nghị COP26, Việt Nam đã có những cam kết mạnh mẽ, trong đó bao gồm đưa mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050. Ngoài ra, các cam kết về phát triển bền vững cũng đã được đưa vào các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như: CPTPP và EVFTA.
Trong quá trình này, Việt Nam là nước đang phát triển, nền kinh tế đang chuyển đổi, còn nhiều khó khăn, nhưng cũng phải làm như một nước phát triển. Để cộng đồng doanh nghiệp đồng hành cùng Chính phủ Việt Nam trong thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh trong thời gian tới, Thủ tướng nhấn mạnh một số định hướng chiến lược và quan điểm.
Theo đó, tăng trưởng xanh là xu thế của thời đại, cũng là vấn đề toàn cầu, do đó, phải kêu gọi đoàn kết, hợp tác quốc tế, đề cao chủ nghĩa đa phương trên tinh thần chân thành, tin cậy, hiệu quả. “Phát triển hôm nay nhưng phải nghĩ đến tương lai con cháu sau này ; phát triển mang lại thu nhập cho người dân nhưng phải bảo đảm sức khoẻ cho người dân”, Thủ tướng nói.
Việt Nam đang tập trung cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, trong đó khai thác và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả năng lượng, tài nguyên dựa trên nền tảng khoa học và công nghệ và chuyển đổi số. Đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng xanh, bền vững, đặc biệt lưu ý về quy hoạch phát triển điện lực quốc gia để phát triển năng lượng bền vững; đảm bảo quá trình chuyển đổi xanh theo nguyên tắc bình đẳng, bao trùm.
Cùng với đó, phát triển kinh tế xanh cần được triển khai quyết liệt ở cấp độ quốc gia, khu vực và toàn cầu. Lấy con người là trung tâm, chủ thể, vừa là nguồn lực vừa là động lực quan trọng nhất và là mục tiêu cao nhất của sự phát triển, nhất là trong phát triển xanh. Tránh tình trạng “tăng trưởng trước, dọn dẹp sau”; không chấp nhận phương thức tăng trưởng bằng mọi giá, thiếu tính bền vững; và càng không chạy theo tăng trưởng đơn thuần mà phải hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường sống của người dân.
Theo Thủ tướng, tăng trưởng xanh cần có lộ trình phù hợp, tính đến điều kiện và năng lực khác nhau của từng vùng miền, địa phương và doanh nghiệp. Khuyến khích sự hưởng ứng và tham gia của tất cả các chủ thể trong xã hội, nhất là doanh nghiệp và người dân, thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa các dự án theo hình thức đối tác công – tư (PPP) trong tăng trưởng xanh.
Quan tâm cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp
Thủ tướng cho rằng, thời gian tới, phản ứng chính sách của các nước, thị trường bị thu hẹp, các diễn biến địa chính trị, xung đột ở một số nơi, các vấn đề an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh thông tin, biến đổi khí hậu, già hóa dân số… sẽ tiếp tục tác động tới Việt Nam, mang tới không ít khó khăn, thách thức.
Trong khi đó, Việt Nam là nước đang phát triển, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, quy mô nền kinh tế còn khiêm tốn nhưng có độ mở lớn, sức chống chịu và khả năng thích ứng còn hạn chế, chịu ảnh hưởng lớn trước các biến động của thế giới, trong khi nội tại còn nhiều vấn đề cần giải quyết.
Thủ tướng mong muốn nhà đầu tư tiếp tục đồng hành cùng Việt Nam vượt qua khó khăn, “các khó khăn lâu dài thì có giải pháp lâu dài, khó khăn trước mắt thì có giải pháp trước mắt”. Điều quan trọng là các bên giữ vững bản lĩnh, phát huy những kết quả đã đạt được, những kinh nghiệm đã có, nhận diện được vấn đề, lắng nghe ý kiến của nhau, tìm ra giải pháp phù hợp, hợp tác bền chặt, lâu dài trên cơ sở hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người dân và doanh nghiệp, nếu cấu trúc hài hòa này bị phá vỡ thì hợp tác không thể bền vững. Đồng thời, Thủ tướng mong muốn các nhà đầu tư, cộng đồng chú trọng xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa kinh doanh, góp phần phát triển nền văn hóa Việt Nam ngang tầm với kinh tế và chính trị.
Thủ tướng khẳng định Chính phủ Việt Nam tiếp tục cam kết mạnh mẽ về tạo mọi điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp phát triển, cụ thể là tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.
Quan tâm cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp; tăng tính minh bạch, bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực; tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp, người lao động và các bên liên quan.Triển khai đồng bộ, hiệu quả các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp (về vốn, chuyển giao công nghệ, đào tạo, phát triển nhân lực…).
Cùng với đó, phát triển đồng bộ các loại thị trường tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được tiếp cận bình đẳng (thị trường hàng hóa và dịch vụ, tài chính – tiền tệ, chứng khoán; quyền sử dụng đất, bất động sản, khoa học – công nghệ, lao động, mua sắm công…).
Đồng thời, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của quản lý nhà nước (đẩy mạnh chuyển đổi số trong công tác quản lý; bảo vệ sở hữu trí tuệ, quyền tác giả; phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại…). Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ công chức tận tuỵ, thân thiện, giải quyết dứt điểm các công việc, vướng mắc cho nhà đầu tư.
Sớm có chính sách phù hợp với thuế tối thiểu toàn cầu
Thủ tướng đánh giá cao các ý kiến tại Diễn đàn rất tâm huyết, thẳng thắn, mang tính xây dựng và khát vọng lớn lao muốn đóng góp cho sự phát triển thịnh vượng của Việt Nam; yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp các ý kiến tại Diễn đàn, báo cáo Thủ tướng Chính phủ để có chỉ đạo tới các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như kiến nghị về sửa đổi thể chế, cơ chế, chính sách trong thời gian tới.
Thủ tướng đề nghị các bộ, ngành căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn chủ động xử lý, khẩn trương phản hồi các kiến nghị, tăng cường đối thoại chính sách, truyền thông chính sách, bảo đảm thực hiện đúng các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam. Đồng thời, xem xét tiếp thu, lồng ghép các đề xuất, kiến nghị hợp lý của các đại biểu tại Diễn đàn vào các chương trình, kế hoạch hành động của bộ, ngành để thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Kế hoạch phát triển KT-XH; đồng thời, phục vụ trong công tác tham mưu, xây dựng pháp luật trong thời gian tới.
Về một số vấn đề quan tâm, kiến nghị cụ thể của nhà đầu tư, Thủ tướng cho biết các cơ quan sẽ tiếp tục giải quyết các vấn đề liên quan visa, giấy phép lao động theo hướng thuận lợi nhất. Các cơ quan cũng đang đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Đấu thầu… và các quy định liên quan. Về tới ngành dược, Quốc hội đã ban hành Luật Khám chữa bệnh sửa đổi và sắp tới các cơ quan sẽ trình Quốc hội sửa đổi Luật Dược.
Về thuế tối thiểu toàn cầu, Chính phủ đang bám sát thực tiễn, tham khảo kinh nghiệm các nước để sớm có chính sách phù hợp, phấn đấu ban hành ngay trong năm nay, tạo cơ hội cho doanh nghiệp nước ngoài hoạt động thuận lợi, đóng góp nhiều hơn cho Việt Nam nhưng không ảnh hưởng tới lợi ích của nhà đầu tư.
Chia sẻ thêm về những quan tâm của nhiều nhà đầu tư trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, Thủ tướng cho biết Việt Nam có tiềm năng lớn và cần phát triển ngành công nghiệp trong lĩnh vực này. Vừa qua, nhiều dự án điện gió, điện mặt trời đã được triển khai có hiệu quả nhưng có dấu hiệu phát triển nóng, có những dự án không đúng với quy hoạch, quy định hiện hành, giá cả không phù hợp.
Do đó, các bên phải ngồi lại, đàm phán lại về giá điện trên tinh thần không để ai thiệt thòi, “lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ”, bảo đảm giá điện phù hợp với điều kiện nền kinh tế và thu nhập của người dân. Mặt khác, ông cho biết Việt Nam đã thí điểm cơ chế mua bán điện trực tiếp và sẽ khuyến khích cơ chế này trong thời gian tới. Thủ tướng cũng đề nghị các đối tác hỗ trợ Việt Nam chuyển đổi năng lượng bảo đảm công bằng, công lý với các khoản vay kéo dài hơn và lãi suất giảm đi.
Thủ tướng một lần nữa nêu rõ, với chủ đề điều hành năm 2023 là “Đoàn kết kỷ cương, bản lĩnh linh hoạt, đổi mới sáng tạo, kịp thời hiệu quả”, Chính phủ Việt Nam sẽ tập trung chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương nỗ lực, quyết tâm cao nhất để đạt được mục tiêu đề ra, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp mở rộng đầu tư, kinh doanh, bảo đảm lợi ích hài hòa các bên.
“Tôi mong rằng Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục là một kênh đối thoại chính sách quan trọng và hiệu quả giữa Chính phủ với cộng đồng doanh nghiệp; phát huy những kết quả đạt được trong 25 năm đối thoại, không có gì ngăn cản được chúng ta hợp tác trên tinh thần cùng thắng”, Thủ tướng nhấn mạnh.
Bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới: Tôi xin ghi nhận vai trò của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam trong 25 năm vừa qua và vai trò của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc chuyển đổi Diễn đàn này thành một kênh không chỉ chia sẻ thông tin mà còn đưa đến kết luận cũng như thiết kế những giải pháp trong những lĩnh vực quan trọng như tăng trưởng xanh, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số.
Xin trân trọng cảm ơn ngài Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đã có vai trò chủ trì Diễn đàn trong nhiều năm. Đồng thời tôi cũng rút ra một số điều đại diện cho nhóm Ngân hàng Thế giới thông qua phần thảo luận. Ở đây tôi xin đề cập đến quá trình tăng trưởng xanh.
Chúng ta đề cập đến Quy hoạch Điện VIII. Điểm mà chúng tôi thực sự muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của Quy hoạch Điện VIII là: Đây chính là kênh đầu tư cho tăng trưởng xanh, không có đầu tư như vậy chúng ta sẽ không biết mình cần đầu tư những gì, đầu tư đó cần bao nhiêu chi phí cũng như làm thế nào để huy động nguồn tài chính cho những dự án đầu tư đó.
Về Quy hoạch Điện VIII, nhóm Ngân hàng Thế giới rất vui mừng được phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương và Thứ trưởng Đặng Hoàng An để có thể hoàn thiện văn kiện này sớm nhất có thể. Để chúng ta biết được chúng ta cần những dự án đầu tư gì, tiêu tốn bao nhiêu tiền và làm thế nào có thể huy động nguồn tài chính cho những hoạt động đầu tư đó, đây là một bước vô cùng quan trọng trong quá trình này.
Điểm thứ hai là chúng ta cũng đã đề cập tương đối nhiều đến cơ chế giá và các hoạt động mua sắm đấu thầu trong các dự án về năng lượng tái tạo. Đối với lĩnh vực này, tôi xin khuyến nghị chúng ta áp dụng một cách thức mua sắm đấu thầu bảo đảm minh bạch và mang tính cạnh tranh. Vừa rồi ngài Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng đã đề cập đến cách tiếp cận có thể nói tốt nhất về mua bán điện, sẽ tạo điều kiện cho chúng ta có thể nâng cao năng lực kỹ thuật, đồng thời có thể giảm thiểu những rủi ro cắt giảm công suất.
Chúng ta cũng đã lắng nghe từ cơ quan đối tác là có thể sẽ mất 2 năm trước khi chúng ta có khung khổ mua sắm đấu thầu khi chúng ta vẫn còn rà soát các văn bản pháp luật. Như vậy là một thời gian tương đối dài và có lẽ nên đẩy nhanh khung khổ này nếu chúng ta vẫn muốn giữ các nhà đầu tư khi họ đang cân nhắc có đầu tư vào hay không. Đồng thời chúng ta cũng cần có khung giá về các dịch vụ phụ trợ, đặc biệt là hệ thống pin lưu trữ năng lượng như chúng ta đã được lắng nghe từ các diễn giả của các hiệp hội đối tác ngày hôm nay. Đồng thời chúng ta cũng đã biết đến tầm quan trọng của việc đầu tư vào lưới điện truyền tải cũng như đầu tư nhằm nâng cấp lưới điện. Không có đầu tư vào truyền tải, lưới điện thì dù có đầu tư từ phía của tư nhân vào các dự án năng lượng tái tạo cũng không thể đưa năng lượng tái tạo lên lưới điện để truyền tải đến các hộ gia đình và các doanh nghiệp.
Chúng tôi khuyến nghị Chính phủ Việt Nam có thể cân nhắc việc khung pháp lý về nguồn tài trợ chính thức cho EVN cũng như các doanh nghiệp liên kết của EVN. Chúng tôi có thể hỗ trợ cung cấp nguồn tài chính cho lưới truyền tải và nâng cấp lưới điện. Tuy nhiên ở đây chúng ta cũng cần đánh giá lại về khung pháp lý.
Chúng ta cũng đã lắng nghe từ các đại biểu rằng có thể cần đến 16 tỷ USD đầu tư cho lưới truyền tải, đó là một số tiền rất lớn. Chúng tôi rất hy vọng có thể đẩy nhanh các hoạt động liên quan đến EDA và tôi cũng xin nhấn mạnh, chúng ta có nhiều cơ hội để có thể tiếp cận thị trường carbon. Chúng ta cũng đề cập đến việc Bộ Tài nguyên và Môi trường hiện đang cân nhắc xây dựng một thị trường phát thải carbon. Chúng ta cũng có thị trường phát thải carbon mang tính tự nguyện, tuy nhiên Việt Nam vẫn chưa tiếp cận đầy đủ tiềm năng của thị trường này và chúng tôi rất vui mừng được hỗ trợ Việt Nam nếu chúng ta muốn biết cần có những thay đổi gì về mặt pháp lý, cần có những dự án đầu tư nào để có thể khơi thông nguồn tài chính đến từ thị trường carbon tự nguyện cũng như các hoạt động để có thể giảm thiểu phát thải carbon.
Ông Soren Roed Pedersen, Đồng Chủ tịch Liên minh VBF: Đây là năm thứ 2 chúng ta tổ chức Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam thường niên theo hình thức mới, tạo thêm nhiều dư địa khuyến nghị cho cộng đồng doanh nghiệp, cũng như khuyến nghị về các giải pháp chính sách để thích ứng với tình hình mới.
Tại Diễn đàn này, chúng ta đã được nghe những định hướng, chiến lược của Chính phủ Việt Nam, đồng thời, lắng nghe những chỉ đạo của Thủ tướng Phạm Minh Chính.
Chúng tôi đánh giá cao những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam, sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam, các bộ ngành thuộc Chính phủ đã quan tâm đến những vấn đề của các doanh nghiệp. Như Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã đề cập, thế giới vẫn đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức và các quốc gia đều đang phải đối diện những thách thức này. Không ngoại trừ các cộng đồng doanh nghiệp cũng sẽ phải đối diện những khó khăn thách thức. Do đó, chúng ta cần phải có tầm nhìn dài hạn để đối phó với những khó khăn, thách thức này.
Chúng tôi hoàn tin tưởng rằng, các mối quan hệ giữa Chính phủ Việt Nam với cộng đồng doanh nghiệp sẽ thúc đẩy tăng trưởng xanh, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn và các lĩnh vực quan trọng khác. Chúng tôi cam kết sẽ tiếp tục nỗ lực và đóng góp nhiều hơn vào thành công và phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam.
Cộng đồng doanh nghiệp xin trân trọng cảm ơn sự phối hợp và hỗ trợ của các bộ ngành, đặc biệt là vai trò điều phối của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đối với Diễn đàn doanh nghiệp, để lắng nghe những khó khăn, thách thức của cộng đồng doanh nghiệp, cùng nhau tháo gỡ khó khăn, thách thức để phát triển kinh tế bền vững.
Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng: Chúng ta đã hoàn thành xong buổi làm việc với nhiều vấn đề thời sự, các doanh nghiệp đã có nhiều ý kiến thảo luận, đưa ra nhiều kiến nghị xác đáng. Chúng ta cũng đã lắng nghe ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ cũng như những nhiệm vụ mà các bộ ngành, hiệp hội tiếp tục cần thực hiện.
Tôi xin tóm lược một số ý chính gồm:
Chúng ta cần hoàn thiện thể chế chính sách về kinh tế xanh, cần tiếp tục rà soát, cải cách, tối ưu hoá các quy định liên quan về phát triển kinh tế xanh, môi trường và phát triển bền vững. Tăng cường sự tham gia của doanh nghiệp trong xây dựng và hoàn thiện các thể chế và thực thi pháp luật.
Về kinh tế số, đây là một trong những giải pháp quan trọng mang tính động lực, thúc đẩy quá trình chuyển đổi số của Việt Nam nhanh và bền vững. Trong thời gian tới, cần tiếp tục hoàn thiện các khung pháp lý trong kinh tế số, an ninh mạng, thương mại điện tử, bảo vệ dữ liệu cá nhân, phát triển đội ngũ nhân lực số, xây dựng xã hội số, điện toán đám mây.
Về chuyển đổi năng lượng đóng vai trò quan trọng mang tính quyết định trong phát triển kinh tế xanh, đưa phát thải ròng về 0 trong năm 2050.
Thời gian tới, dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Việt Nam sẽ sớm ban hành Quy hoạch điện VIII điều chỉnh thể chế và hạ tầng để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang năng lượng tái tạo như điện gió, điện mặt trời, điện khí LNG… đồng thời áp dụng các dự án năng lượng tái tạo cho các khu công nghiệp.
Trong quá trình thảo luận, các bộ, ngành cũng đã có ý kiến trao đổi chi tiết, làm rõ hơn cho các doanh nghiệp, đặc biệt trong việc phát triển kinh tế xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn, thực hiện có hiệu quả các cam kết về phát triển bền vững trong việc đồng hành cùng Chính phủ trong việc phát triển các mục tiêu đã đề ra.
Tôi mong muốn rằng, các doanh nghiệp bắt đầu khởi nghiệp hoặc đổi mới sáng tạo sẽ hiến kế về phát triển kinh tế xanh, có sự lan toả với cộng đồng, cùng chung tay xây dựng nền kinh tế xanh. Bộ KH&ĐT, các nộ, ngành, địa phương sẽ tiếp thu nghiêm túc các chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị ngày hôm nay và nghiên cứu, tìm tòi hoàn thiện các chính sách cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh trên tinh thần lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể, mục tiêu trong quá trình hoàn thiện và thực thi pháp luật.
Ngay sau Diễn đàn, đã diễn ra lễ kỷ niệm 25 năm thành lập Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF).