Rộng cửa đón làn sóng đầu tư
Thông tin từ Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến ngày 20/5/2023, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đạt gần 10,86 tỷ USD. Theo ông Đỗ Thành Trung – Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện Việt Nam là một trong những quốc gia đi đầu và đạt nhiều thành tựu quan trọng trong thu hút đầu tư nước ngoài.
Việt Nam được các quốc gia đánh giá có nguồn lao động dồi dào và trẻ, trình độ ngày càng được nâng cao. Ảnh: Quang Vinh.
Trong bối cảnh khó khăn kinh tế thế giới toàn cầu, Việt Nam vẫn là điểm đến của dòng vốn đầu tư nước ngoài. Tính đến cuối tháng 4/2023, Việt Nam đã thu hút được gần 446 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài (FDI) trong đó khoảng 280 tỷ USD đã được giải ngân. Nhiều tập đoàn đa quốc gia với công nghệ hiện đại đang mở rộng đầu tư tại Việt Nam, với chất lượng, hiệu quả ngày càng tăng.
Hướng tới mục đích xuất khẩu
Một trong những quốc gia duy trì và dự định mở rộng đầu tư tại Việt Nam thời gian này là Nhật Bản, nền kinh tế thứ 3 thế giới. Cộng đồng doanh nghiệp (DN) Nhật Bản đánh giá Việt Nam là quốc gia phát triển năng động nhất Đông Nam Á, có nguồn lao động dồi dào và trẻ, trình độ ngày càng được nâng cao.
Ông Furusawa Yasuyuki – thành viên Ban giám đốc, Điều hành Tập đoàn AEON (Nhật Bản) phụ trách thị trường Việt Nam, kiêm Tổng Giám đốc AEON Việt Nam cho biết, AEON xác định Việt Nam là thị trường trọng điểm thứ 2 bên cạnh Nhật Bản để tăng tốc đẩy mạnh hoạt động đầu tư trong thời gian tới.
Cũng không riêng gì Nhật Bản, các quốc gia khác cũng chọn Việt Nam là điểm đến đầu tư.
Trong báo cáo mới nhất với chủ đề “Dòng vốn FDI vào Việt Nam tiếp tục duy trì ổn định” do Vina Capital thực hiện, ông Michael Kokalari – Chuyên gia Kinh tế trưởng của VinaCapital nhận định: Việt Nam sẽ tiếp tục là điểm đến hàng đầu cho FDI, đặc biệt là từ các công ty đa quốc gia đang tìm cách sản xuất để xuất khẩu và tìm kiếm một cơ sở sản xuất thay thế hoặc bổ sung cho Trung Quốc trong tương lai gần.
Lý giải thích cho nhận định này, ông Michael Kokalari cho rằng, Việt Nam đang theo đuổi mô hình phát triển thành công của Đông Á – cách tiếp cận mà các nền kinh tế được ví như “con hổ của châu Á” đã vận dụng để trở nên giàu có.
Chiến lược tăng trưởng kinh tế này tập trung vào việc sản xuất các sản phẩm xuất khẩu sang Mỹ và các nước phát triển khác. Phần lớn các công ty đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam đều đang đóng góp vào nỗ lực đó. Hầu hết các sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam đều nhằm mục đích xuất khẩu, đặc biệt là sang Mỹ – một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam (chiếm hơn 1/4 kim ngạch xuất khẩu).
Theo thông tin từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tiếp sau những cam kết của Chính phủ về việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, tháo gỡ khó khăn, tạo dựng môi trường đầu tư – kinh doanh thuận lợi, dễ dự đoán, phù hợp với tiêu chuẩn toàn cầu, trong vòng 2-3 tháng tới sẽ có một số chính sách mới trong thu hút đầu tư nước ngoài. 3 mục tiêu được xác định là giữ chân các nhà đầu tư hiện hữu; đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư đầu tư mới và bảo đảm sự công bằng giữa các DN, các thành phần kinh tế. Đặc biệt, các DN Việt Nam cũng đang nỗ lực cải thiện năng lực cạnh tranh, đủ sức đi cùng, cộng hưởng với DN đầu tư nước ngoài.
Tập đoàn AEON (Nhật Bản) thành công tại thị trường Việt Nam.
Giải quyết băn khoăn thuế tối thiểu toàn cầu
Có một yếu tố mới xuất hiện đang khiến các tập đoàn quốc tế quy mô lớn ngần ngại đưa ra quyết định đầu tư, mở rộng đầu tư tại các thị trường, trong đó có Việt Nam. Đó là các quy định của thuế tối thiểu toàn cầu. Ông Đỗ Văn Sử – Phó Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết, số lượng dự án quy mô lớn, trị giá tỷ USD tại Việt Nam giảm do các tập đoàn lớn đứng ngoài quan sát tác động của thuế tối thiểu toàn cầu.
Ông Choi Joo Ho – Tổng Giám đốc Samsung Việt Nam chia sẻ, quy luật và trật tự kinh tế thế giới có những biến đổi. OECD đã áp dụng quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu với các DN đa quốc gia ở quy mô nhất định. Hơn 100 DN nước ngoài hoạt động tại Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng bởi thuế tối thiểu toàn cầu. Điều này cũng khiến sức cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam suy giảm, khi các chính sách ưu đãi thuế hiện nay mất đi hiệu quả thực tế.
Ông Choi Joo Ho, cũng nhấn mạnh, Việt Nam được coi là cứ điểm sản xuất quan trọng hàng đầu của Tập đoàn Samsung. Tuy nhiên, lãnh đạo Samsung Việt Nam cũng cho rằng, các chính sách Chính phủ ứng phó với thuế tối thiểu toàn cầu sẽ có tính quyết định đến năng lực cạnh tranh của các công ty thuộc tập đoàn đa quốc gia lớn đang hoạt động tại Việt Nam.
Theo lãnh đạo Samsung, Chính phủ nên có chính sách hỗ trợ bằng tiền mặt thay thế cho cơ chế miễn giảm thuế thu nhập DN đã bị vô hiệu hóa khi áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu. Trong đó, khoản hỗ trợ này có thể được thực hiện qua các quy trình thủ tục đăng ký và chi trả sau khi doanh nghiệp đã nộp thuế.
Hiện 3 quốc gia là Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản đang là các nước có số vốn đầu tư nước ngoài lớn vào Việt Nam và đây sẽ là các quốc gia có nhiều DN thuộc đối tượng áp dụng của thuế tối thiểu toàn cầu. Các dự án FDI đang được hưởng ưu đãi thuế thu nhập DN thấp hơn 15%. Đó thường là các DN trong lĩnh vực công nghệ cao như Samsung, Intel, LG, Bosch, Sharp hay Panasonic…
Đại diện lãnh đạo Cục Đầu tư nước ngoài cho biết, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ sớm có những giải pháp cụ thể, rõ ràng liên quan tới thuế tối thiểu toàn cầu. Mục tiêu chính của các giải pháp là giữ chân nhà đầu tư hiện hữu, đủ sức hấp dẫn với nhà đầu tư mới và đảm bảo công bằng giữa các DN, các thành phần kinh tế. Việt Nam vẫn rộng cửa đón làn sóng đầu tư nước ngoài, đó là chính sách nhất quán, lâu dài.
Thích ứng với thuế tối thiểu toàn cầu
PV: Việt Nam hiện thu hút được vốn đầu tư nước ngoài (FDI) từ hơn 140 quốc gia và vùng lãnh thổ. Theo ông, việc thực hiện thuế tối thiểu toàn cầu sẽ ảnh hưởng tới các doanh nghiệp (DN) FDI tại Việt Nam như thế nào?
Ông Bùi Ngọc Tuấn: Liên quan đến cạnh tranh thu hút đầu tư, vấn đề dễ nhận ra là các chính sách ưu đãi thuế theo thu nhập hiện tại của Việt Nam, cụ thể là ưu đãi miễn, giảm hoặc thuế suất ưu đãi với thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) sẽ mất đi nhiều tác dụng và không còn hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài.
Cụ thể, thuế suất thuế TNDN tiêu chuẩn của Việt Nam là 20%, nhưng có rất nhiều DN có vốn đầu tư nước ngoài đang hưởng các ưu đãi theo địa bàn, lĩnh vực, quy mô đầu tư, và theo đó đang nộp thuế ở mức 0%, 5%, 10%… Trong khi các quốc gia công ty mẹ của các DN này áp dụng quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu, các DN này sẽ chịu thiệt hại nặng nề do phần thuế bổ sung nộp tại quốc gia của công ty mẹ đối với phần chênh lệch giữa mức thuế suất hiệu quả khi đang hưởng ưu đãi tại Việt Nam và thuế suất tối thiểu 15%.
Nếu Việt Nam không có chiến lược và các chính sách ưu đãi, hỗ trợ mới và hợp lý, sẽ đối mặt với bất lợi lớn trong việc giữ chân và thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, bao gồm các “đại bàng” là các tập đoàn đa quốc gia lớn và hệ sinh thái các DN vệ tinh thuộc chuỗi cung ứng của những nhà đầu tư lớn.
Vậy, để giải quyết bài toán về thuế tối thiểu toàn cầu, theo ông Việt Nam cần phải ứng xử như thế nào để vừa bảo vệ lợi ích quốc gia, vừa đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư?
– Thứ nhất, để giữ quyền đánh thuế, Việt Nam nên cân nhắc áp dụng cơ chế QDMTT (thuế tối thiểu bổ sung nội địa theo chuẩn – là phần chênh lệch giữa 15% và thuế suất hiệu quả theo hướng dẫn của OECD) từ 2024. Từ đó sẽ không phát sinh thuế đánh trùng giữa quốc gia công ty mẹ và quốc gia nhận đầu tư. Đây là cơ chế đặc biệt quan trọng cần ưu tiên xem xét, cũng là biện pháp phản ứng nhanh theo khuyến nghị của OECD. Các cơ chế khác không đạt chuẩn (ví dụ như áp dụng chung một mức thuế suất thuế TNDN 15%) nhiều khả năng sẽ dẫn đến việc thu thừa vì thuế suất hiệu quả khi áp dụng trong nhiều trường hợp sẽ cao hơn 15%. Việc này vừa gây thiệt hại về tài chính cho nhà đầu tư, vừa gây khó khăn trong việc áp dụng, và không thể hiện được sự hội nhập chính sách thuế của Việt Nam với quốc tế.
Thứ hai, cần xem xét ngay các chính sách phù hợp để ứng phó và hỗ trợ nhà đầu tư nếu không muốn mất đi lợi thế trong việc thu hút đầu tư. Với việc các cơ chế ưu đãi theo thu nhập hiện tại sẽ mất đi nhiều tác dụng, Việt Nam cần cân nhắc các chính sách ưu đãi mới dựa trên chi phí như hỗ trợ chi phí nghiên cứu và phát triển, chi phí nhân lực, các chi phí hỗ trợ sản xuất… cho đối tượng phù hợp.
Thứ ba, việc sửa đổi nội luật để áp dụng cơ chế thuế tối thiểu toàn cầu là tương đối phức tạp vì liên quan đến Luật Thuế TNDN và pháp luật khác có liên quan về đầu tư, lao động… Việt Nam có thể cân nhắc giải pháp trước mắt về việc áp dụng cơ chế Thuế tối thiểu toàn cầu từ 2024. Sau đó sẽ cân nhắc giải pháp lâu dài về sửa đổi các pháp luật liên quan.
Trân trọng cảm ơn ông!