[Quảng Trị] Phát huy nguồn lực để phát triển kinh tế tư nhân
Đến thời điểm hiện nay, tỉnh Quảng Trị có 3.473 doanh nghiệp đang hoạt động. Trong những năm qua, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân trên địa bàn tỉnh có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng. Để phát huy hơn nữa vai trò của kinh tế tư nhân trong giai đoạn mới, tỉnh cần kịp thời tranh thủ các nguồn lực hỗ trợ, cơ chế chính sách từ Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
Sản xuất các sản phẩm từ gỗ ở Công ty TNHH Tiến Phong Cam Lộ – Ảnh: LÊ TRƯỜNG
Doanh nghiệp địa bàn Quảng Trị hoạt động trên tất các các lĩnh vực kinh tế, sử dụng lao động trên địa bàn là chủ yếu, chấp hành tốt quy định của pháp luật, tham gia các hoạt động từ thiện, an sinh xã hội và nộp đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước. Năm 2024 khu vực kinh tế tư nhân nộp 1.170 tỉ đồng, chiếm 32% so với số thu nội địa và chiếm 81% so với số thu của doanh nghiệp (bao gồm doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Nhiều doanh nghiệp đã tạo dựng được thương hiệu, uy tín và có đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh.
Để hỗ trợ doanh nghiệp, thời gian qua, tỉnh đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, hỗ trợ đầu tư, đào tạo lao động như Chương trình cải cách hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI).
Định kỳ hằng năm, tỉnh tổ chức hội nghị xúc tiến đầu tư, công bố các cơ chế, chính sách tỉnh ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư trên địa bàn, công khai quy hoạch của tỉnh, quy hoạch vùng huyện, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng, quy hoạch nông thôn mới để doanh nghiệp biết, đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động. Hỗ trợ các cá nhân, tổ chức lập thủ tục hồ sơ xác lập quyền sở hữu công nghiệp, như: nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, giải pháp hữu ích, chỉ dẫn địa lý.
Đến nay, toàn tỉnh có 377 sản phẩm được cấp văn bằng bảo hộ, trong đó đã đăng ký bảo hộ được 2 chỉ dẫn địa lý (tiêu Quảng Trị và chè vằng Quảng Trị), 6 nhãn hiệu chứng nhận và 59 nhãn hiệu tập thể cho các sản phẩm hàng hóa đặc trưng, thế mạnh của các địa phương. Đã phân hạng và công nhận 136 sản phẩm OCOP cấp tỉnh trong đó 43 sản phẩm đạt 4 sao, 93 sản phẩm 3 sao.
Thông qua việc tham gia chương trình OCOP, các doanh nghiệp được hỗ trợ nâng cấp công nghệ, máy móc; công bố chất lượng, chứng nhận chất lượng; hỗ trợ thiết kế, in ấn bao bì, nhãn mác, xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc, xây dựng trang thương mại điện tử; thúc đẩy và mở rộng thị trường tiêu thụ cho các doanh nghiệp, kết nối tiêu thụ tại các hệ thống siêu thị, cửa hàng bán lẻ, chuỗi cung ứng.
Tuy có sự phát triển cả về số lượng và chất lượng nhưng phần lớn doanh nghiệp của tỉnh có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, trong đó số doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm gần 60%; tiềm lực tài chính và trình độ quản trị còn hạn chế; phần lớn năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo thấp, năng suất lao động, hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh chưa cao; việc tiếp cận nguồn vốn, đất đai, tài nguyên còn khó khăn.
Để góp phần thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần tập trung một số giải pháp sau:
Tiếp tục phát triển các cụm công nghiệp, làng nghề để thu hút doanh nghiệp. Theo Quy hoạch phát triển công nghiệp tỉnh Quảng Trị đến năm 2020, định hướng đến năm 2025, trên địa bàn tỉnh quy hoạch và phát triển 21 cụm công nghiệp (CCN) với tổng diện tích 587 ha.
Đến nay đã hình thành 17 CCN với tổng diện tích 527 ha; đạt tỉ lệ 81% về số CCN và gần 90% về diện tích theo quy hoạch. Theo số liệu thống kê của Sở Công thương, toàn tỉnh có 16 CCN đã đi vào hoạt động và đang thu hút đầu tư. Diện tích đất công nghiệp đã cho các tổ chức, cá nhân thuê, thuê lại để sản xuất, kinh doanh đạt bình quân 64% trên tổng diện tích đất công nghiệp của các CCN.
Hiện có 153 doanh nghiệp (dự án) đầu tư, trong đó có 94 doanh nghiệp đang hoạt động, 22 dự án đang xây dựng, 18 số dự án chưa triển khai. Tổng vốn đăng ký đầu tư các dự án 3.667 tỉ đồng; số vốn đã thực hiện 2.098 tỉ đồng, đạt tỉ lệ 57% số vốn đăng ký; sử dụng 6.161 lao động; doanh thu 2.284 tỉ đồng; nộp ngân sách 61,87 tỉ đồng. Các CCN do cấp huyện quản lý và sau này sẽ chuyển giao về cấp xã quản lý, theo đó nhiều địa phương cấp xã không có CCN. Vì vậy, cần dành quỹ đất để xây dựng CNN, thu hút đầu tư, phát triển doanh nghiệp để thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương. Đây cũng là nhiệm vụ mới của cấp xã cần được quan tâm.
Về tiếp cận, khai thác nguồn vốn trong Nhân dân để đầu tư phát triển doanh nghiệp. Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước tỉnh, đến ngày 31/12/2024 huy động tiền gửi đạt 41.803 tỉ đồng, tăng 14,73% so cuối năm 2023. Trong đó, tiền gửi tiết kiệm dân cư 29.241 tỉ đồng, tăng 15,43%; tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức kinh tế tăng 4,66%; tiền gửi thanh toán tăng 17,45%; huy động khác tăng 33,17%. Đây là một kênh huy động vốn quan trọng để phát triển doanh nghiệp tư nhân, khuyến khích phát triển doanh nghiệp hộ gia đình, tạo việc làm và thu hút lao động nông nhàn tại địa phương.
Bên cạnh đó cần tổ chức bộ máy và nhân lực phù hợp để giải quyết thủ tục hành chính cho doanh nghiệp. Thực hiện chủ trương sắp xếp lại đơn vị hành chính các cấp, xây dựng mô hình tổ chức chính quyền hai cấp, theo đó nhiệm vụ của cấp huyện chuyển về cấp xã có khoảng 346 thủ tục hành chính trên các lĩnh vực xây dựng, kinh tế, văn hóa, tư pháp… trong đó lĩnh vực nông nghiệp và môi trường có 55 thủ tục hành chính bao gồm: Đăng ký đất đai; quản lý đất đai; thủy lợi; trồng trọt và bảo vệ thực vật; chăn nuôi và thú y; thủy sản và kiểm ngư; lâm nghiệp, kiểm lâm và phòng chống thiên tai.
Đây là những nhiệm vụ hoàn toàn mới đối với chính quyền cấp xã, do đó cần tổ chức bộ máy và nhân lực phù hợp theo tinh thần của Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân là “Chuyển từ nền hành chính công vụ, quản lý là chủ yếu sang phục vụ và kiến tạo phát triển, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm; thực hiện hiện đại hóa quản trị công, quản trị dựa trên dữ liệu. Thực hiện chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát…”.