Điểm mặt những nhóm hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam
Theo Tổng cục Hải quan, trị giá xuất khẩu hàng hóa trong 4 tháng đầu năm đạt tới 123,98 tỷ USD, tăng 15,1%, tương ứng tăng tới 16,26 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, có tới 10 nhóm hàng xuất khẩu tăng trên 500 triệu USD. Dẫn đầu là nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 5,44 tỷ USD; tiếp theo là nhóm hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng tăng 1,42 tỷ USD; máy ảnh, máy quay phim và linh kiện tăng 1,14 tỷ USD; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 0,98 tỷ USD; điện thoại các loại và linh kiện tăng 0,87 tỷ USD; cà phê tăng 0,87 tỷ USD; sắt thép các loại tăng 0,71 tỷ USD; hàng dệt may tăng 0,66 tỷ USD; hàng rau quả tăng 0,52 tỷ USD và gạo tăng 0,51 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung, tổng trị giá xuất khẩu 10 nhóm hàng này tăng 13,12 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước và bằng 81% mức tăng trị giá xuất khẩu của cả nước.
Cụ thể, xuất khẩu nhóm hàng điện thoại các loại và linh kiện trong tháng 4 là 3,97 tỷ USD, nâng mức trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 4 tháng đầu năm lên 18,14 tỷ USD, chiếm 15% tổng trị giá xuất khẩu của cả nước và tăng 5% (tương ứng tăng 0,87 tỷ USD) so với cùng kỳ năm trước.
Xuất khẩu điện thoại các loại và linh kiện trong 4 tháng chủ yếu sang các thị trường như Hoa Kỳ với 3,81 tỷ USD, tăng 21,8%; Trung Quốc với 3,47 tỷ USD, giảm 13,9%; EU(27 nước) với 2,55 tỷ USD, giảm 1,6%; Hàn Quốc với 1,16 tỷ USD, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước.
Đối với nhóm máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện, trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong tháng 4 đạt 5,13 tỷ USD, giảm 19% so với tháng trước. Trị giá xuất khẩu nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện trong 4 tháng đạt 21,48 tỷ USD, chiếm tới 17% tổng trị giá xuất khẩu của cả nước và tăng 33,9% (tương ứng tăng 5,44 tỷ USD) so với cùng kỳ năm trước.
Xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện trong 4 tháng chủ yếu sang các thị trường như Hoa Kỳ với 6,8 tỷ USD, tăng 43,8%; Trung Quốc với 3,99 tỷ USD, tăng 23,5%; Hồng Kông với 2,56 tỷ USD, tăng 84,7%; Hàn Quốc với 1,86 tỷ USD, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm trước.
Trong khi đó, ở nhóm máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác, trị giá xuất khẩu nhóm hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng trong 4 tháng đạt 14,64 tỷ USD, tăng 10,8% (tương ứng tăng 1,42 tỷ USD) so với cùng kỳ năm trước.
Xuất khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng trong 4 tháng chủ yếu sang các thị trường như Hoa Kỳ với 5,64 tỷ USD, tăng 5,7%; EU(27 nước) với 2,23 tỷ USD, tăng 16,8%; Hàn Quốc với 1,02 tỷ USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm trước.
Ở nhóm hàng dệt may, trong 4 tháng, trị giá xuất khẩu nhóm hàng này là 10,42 tỷ USD, tăng 6,7% (tương ứng tăng 0,66 tỷ USD) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu nhóm hàng dệt may sang Hoa Kỳ đạt 4,4 tỷ USD, tăng 5,7%; Nhật Bản đạt 1,26 tỷ USD, tăng 11,3%; EU (27 nước) đạt 1,14 tỷ USD, tăng 0,1%; Hàn Quốc đạt 1,01 tỷ USD, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước.
Riêng với nhóm hàng giày dép các loại, xuất khẩu giày dép các loại trong 4 tháng là 6,64 tỷ USD, tăng 7,2% (tương ứng tăng 447 triệu USD) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ là 2,4 tỷ USD, tăng 14,2%; EU (27 nước) là 1,71 tỷ USD, tăng 9,3%; Trung Quốc là 559 triệu USD, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước.
Đối với nhóm hàng gỗ và sản phẩm gỗ, trong 4 tháng đầu năm, trị giá xuất khẩu nhóm hàng này đạt 4,89 tỷ USD, tăng mạnh 25% (tương ứng tăng 979 triệu USD) so với cùng kỳ năm trước.
Trong 4 tháng, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ lớn nhất của Việt Nam, với 2,66 tỷ USD, tăng mạnh 31,9% (tương ứng tăng 643 triệu USD) và chiếm 54% trong tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước.
Máy ảnh máy quay phim và linh kiện: Tổng trị giá xuất khẩu trong 4 tháng của nhóm hàng này đạt 2,93 tỷ USD, tăng 63,9% (tương ứng tăng 1,14 tỷ USD) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc là 1,89 tỷ USD, tăng 103%; sang Hoa Kỳ là 318 triệu USD, tăng 38,6%; Hàn Quốc là 172 triệu USD, tăng 6,3%…so với cùng kỳ năm trước.
Đối với nhóm sắt thép các loại, lượng sắt thép xuất khẩu trong tháng 4/2024 là 1,1 triệu tấn và trị giá đạt 835 triệu USD, mức tương đương với tháng trước. Tính chung, lượng sắt thép xuất khẩu trong 4 tháng/2024 là 4,34 triệu tấn, tăng cao tới 33,7% và trị giá đạt 3,22 tỷ USD, tăng 28,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu sang EU (27 nước) đạt 1,46 triệu tấn, tăng 56,8%; ASEAN đạt 1,14 triệu tấn, giảm 3,7%; Hoa Kỳ đạt 564 nghìn tấn, tăng 130% so với cùng kỳ năm trước.
Cũng trong 4 tháng đầu năm, xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam là 2,72 tỷ USD, tăng 5,8% (tương ứng tăng 150 triệu USD) so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu hàng thủy sản trong 4 tháng sang các thị trường chủ lực như Hoa Kỳ là 465 triệu USD, tăng 13%; Nhật Bản là 441 triệu USD, tương đương cùng kỳ năm trước; Trung Quốc là 400 triệu USD, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước.
Đối với nhóm gạo, lượng gạo xuất khẩu trong 4 tháng lên 3,17 triệu tấn, tăng 9,5% và trị giá đạt 2,04 tỷ USD, tăng 33,6% so với cùng kỳ năm trước. Gạo của Việt Nam chủ yếu được xuất sang thị trường ASEAN với 2,33 triệu tấn, chiếm 74% tổng lượng gạo của cả nước và tăng 28% so với cùng kỳ năm trước.
Bên cạnh đó, đơn giá bình quân xuất khẩu gạo trong 4 tháng/2024 đạt 643 USD/tấn tăng cao 22% so với cùng kỳ năm trước và tăng tới 30% so với cùng kỳ hai năm trước đó.