Khai thác ‘mỏ vàng’ tín chỉ car-bon
Việc triển khai bán tín chỉ carbon hiện đã có lộ trình trong đề án “Phát triển thị trường carbon tại Việt Nam” được xây dựng trên cơ sở Nghị định 06/2022/NĐ-CP. Theo đó, đến năm 2025 Việt Nam sẽ bắt đầu thí điểm và đến năm 2028 sẽ vận hành chính thức sàn giao dịch tín chỉ carbon.
Việt Nam sở hữu tiềm năng lớn để khai thác tín chỉ carbon. Ảnh: Cao Kỳ Nhân.
Với tiềm năng rừng phong phú, nếu biết cách khai thác loại tín chỉ này, đây sẽ là “mỏ vàng” để vừa phát triển nguồn kinh tế, vừa thực hiện mục tiêu lấy rừng nuôi rừng.
Khai mở tiềm năng
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường (TNMT) đến nay, 46 quốc gia và 35 vùng lãnh thổ đã áp dụng định giá carbon với sự tham gia của hàng chục nghìn tập đoàn, doanh nghiệp, nguồn thu năm 2022 khoảng 95 tỷ USD. Việt Nam với hơn 14,7 triệu ha rừng, trong đó có hơn 10 triệu ha rừng tự nhiên hoàn toàn có thể tạo ra nguồn lực tài chính rất lớn từ thị trường carbon rừng để tái đầu tư cho bảo vệ và phát triển rừng.
Tín chỉ carbon là một giấy phép cho phép chủ sở hữu thải ra một lượng carbon dioxide nhất định hoặc các khí nhà kính khác. Trên thị trường, việc mua bán carbon hay chính xác hơn là mua bán sự phát thải khí CO2, được thực hiện thông qua tín chỉ. Một tín chỉ cho phép phát thải một tấn carbon dioxide hoặc tương đương trong các khí nhà kính khác.
Theo PGS.TS Nguyễn Bá Ngãi – Phó Chủ tịch Hội Chủ rừng Việt Nam, tín hiệu đáng mừng là trữ lượng hấp thụ carbon rừng của Việt Nam không chỉ có xu hướng tăng so với giai đoạn trước mà còn tăng vượt trội so với mức phát thải trong lâm nghiệp.
Cụ thể, giai đoạn 2010-2020, lượng phát thải trung bình trong lâm nghiệp là 30,6 triệu tấn CO2 nhưng lượng hấp thụ trung bình đạt khoảng 69,9 triệu tấn (phát thải âm 39,3 triệu tấn CO2). Lượng carbon rừng hằng năm dành cho chuyển nhượng có thể lên đến hàng chục triệu tấn (hàng chục triệu tín chỉ), nếu chuyển nhượng thành công thì nguồn thu có thể lên đến hàng nghìn tỷ đồng.
Trước lợi thế đó, tháng 2/2020, Bộ NNPTNT và Ngân hàng Thế giới (WB) đã ký “Thỏa thuận giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ” giai đoạn 2018 – 2024.
Theo đó, Việt Nam sẽ chuyển nhượng 10,3 triệu tấn carbon giảm phát thải từ rừng (tương đương 10,3 triệu tín chỉ carbon) cho WB với tổng trị giá là 51,5 triệu USD. Và vừa qua, WB đã chuyển cho Việt Nam hơn 41 triệu USD, tương đương 80% tổng kinh phí. Từ thỏa thuận bán tín chỉ carbon này, các tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ sẽ được nhận về số tiền xứng đáng để tái thiết rừng.
Ông Mai Văn Minh – Giám đốc Sở NNPTNT tỉnh Quảng Bình, cho biết: “Lần đầu tiên và bắt đầu từ năm 2023, Quảng Bình cùng 5 tỉnh Bắc Trung Bộ nhận được nguồn tiền từ dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng. Nguồn kinh phí này sẽ phục vụ công tác quản lý, bảo vệ rừng và hỗ trợ phát triển sinh kế cho người dân sống gắn bó với rừng”.
Theo ông Minh, Bộ NNPTNT đã chuyển nhượng 10,2 triệu tấn CO2 vùng Bắc Trung Bộ cho Ngân hàng Tái thiết và phát triển quốc tế (IBRD). Theo đó, Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Trung ương nhận được 51,5 triệu USD từ Quỹ carbon thông qua IBRD.
Quỹ Trung ương trích tiền quản lý phí và các khoản chi hợp lệ khác (tối đa 3,5% hoặc khoảng 1,802 triệu USD) còn lại khoảng 49,698 triệu USD, Quỹ Trung ương điều phối cho 6 tỉnh trong khu vực theo quy định. Trong đó, Quảng Bình chuyển nhượng hơn 2,4 triệu tấn CO2, được chi trả khoảng 235 tỷ đồng trong giai đoạn 2023-2025. Riêng năm 2023, Quảng Bình được nhận 82,4 tỷ đồng (cao thứ 2 trong 6 tỉnh của khu vực).
Nguồn lợi lớn thu về từ việc bán tín chỉ carbon không chỉ là động lực giúp các chủ rừng, nông dân nâng cao năng suất rừng trồng, cải thiện sinh kế bền vững, góp phần bảo vệ diện tích rừng hiện có và nâng cao độ che phủ mà còn giúp tăng thu nhập cho doanh nghiệp thông qua nguồn thu từ kết quả giảm phát thải.
Bên cạnh đó, việc xây dựng sàn giao dịch carbon còn mở ra một lĩnh vực mới thu hút các công ty liên quan. Cuối tháng 9/2023, Tập đoàn CT Group đã ra mắt Công ty cổ phần Sàn giao dịch tín chỉ carbon ASEAN với mục tiêu chủ động thích ứng chính sách thương mại về môi trường quốc tế, đồng thời hướng tới nền kinh tế carbon thấp.
Bà Hoàng Bạch Dương – Phó Chủ tịch thường trực CT Group – cho hay việc xây dựng thị trường tín chỉ carbon, tài chính xanh là xu thế tất yếu, để tăng năng lực cạnh tranh cấp độ toàn cầu. Trong đó, đáp ứng các tiêu chuẩn hàng rào thuế carbon mà những thị trường lớn đang áp dụng sẽ đóng vai trò quyết định cho cuộc đua mới trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Việc triển khai thị trường carbon còn đóng vai trò quan trọng trong đảm bảo mục tiêu Việt Nam đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 (theo Nghị định 06/2022/NĐ-CP quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozon).
TS Tăng Thế Cường – Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ TNMT) nhận định, việc phát triển thị trường carbon tại Việt Nam sẽ góp phần thực hiện mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính với chi phí của doanh nghiệp và xã hội thấp, thúc đẩy phát triển công nghệ phát thải thấp. Góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, hướng tới phát triển nền kinh tế carbon thấp, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Lợi ích trước mắt và lâu dài khi khai thác thị trường carbon tại Việt Nam là rất lớn. Tuy nhiên hiện vẫn còn khá nhiều vướng mắc khiến các địa phương có rừng, các nhà đầu tư, doanh nghiệp, các tổ chức trong nước và quốc tế có ý định đầu tư tín chỉ carbon rừng của Việt Nam, vẫn rất dè dặt, mặc dù mức độ quan tâm của họ rất lớn.
Tạo điều kiện cho thị trường tín chỉ carbon
Hiện nhiều địa phương có tiềm năng khai thác tín chỉ carbon rừng nhưng vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về việc thu thập và bán các tín chỉ carbon như thế nào. Với diện tích gần 500.000 ha rừng, độ che phủ hơn 60%, trung bình mỗi năm rừng Quảng Nam sẽ tạo được 1 triệu tín chỉ carbon. Nếu giao dịch thành công, Quảng Nam có thể thu về trên 100 tỷ đồng.
Nguồn thu này lớn hơn nhiều so với nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng hiện có. Không chỉ có những người trực tiếp giữ rừng mà ngay chính quyền các địa phương có rừng rất kỳ vọng vào việc thương mại hoá tín chỉ carbon.
Bên cạnh đó, nếu thương mại hóa được tín chỉ carbon rừng, trong vòng 10 năm tới, diện tích rừng tự nhiên của Quảng Nam sẽ tăng thêm 20%, đóng góp vào mục tiêu giảm phát thải chung của cả nước.
Theo đại diện UBND tỉnh Quảng Nam, mong muốn lớn nhất của họ cần một hành lang pháp lý rõ ràng, để họ có thể thương mại hóa tín chỉ carbon, cũng là mong muốn của nhiều hộ trồng và giữ rừng.
Ông Hồ Quang Bửu – Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam cho biết: “Mong muốn Chính phủ có hành lang pháp lý cho việc buôn bán tín chỉ carbon, mà không chỉ cho địa phương mà cho một hộ dân và một chủ rừng họ cũng có thể bán được”.
Tại tỉnh Tuyên Quang, hiện có gần 426.000 ha rừng, giá trị sản xuất lâm nghiệp tăng trưởng bình quân 7,5%/năm, tiềm năng rất lớn về thương mại carbon rừng từ REDD+ cũng đang gặp khó khăn.
Năm 2022 tỉnh Tuyên Quang được Cục Lâm nghiệp đưa vào dự án hợp tác với Công ty Lâm nghiệp SK Hàn Quốc về giảm phát thải khí nhà kính nhằm quản lý rừng bền vững, bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu 14 tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc.
Tuy nhiên, dự án triển khai chưa hiệu quả do thiếu các quy định về quy trình, thủ tục, trách nhiệm của các bên liên quan, cơ chế tài chính của một dự án kinh doanh tín chỉ carbon rừng ở từng giai đoạn.
Không chỉ vướng mắc ở những đơn vị có khả năng cung cấp chứng chỉ carbon mà các doanh nghiệp cần mua tín chỉ cũng còn nhiều khúc mắc trong hành lang pháp lý. Hiện nay, Bộ TNMT đang tìm hiểu để tìm ra mô hình sàn giao dịch tín chỉ carbon của Việt Nam sao cho phù hợp nhất.
Trong Hội thảo “Kinh nghiệm quốc tế về phát triển thị trường carbon và hàm ý chính sách với Việt Nam” do Bộ Ngoại giao, Bộ TNMT và Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) tổ chức hồi tháng 11 vừa qua tại Hà Nội, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu Nguyễn Tuấn Quang cho hay, để thúc đẩy phát triển thị trường carbon tại Việt Nam, nhiệm vụ đặt ra là cần xây dựng quy định về quản lý, kinh doanh tín chỉ carbon; thiết lập hệ thống đăng ký quốc gia về tín chỉ carbon; xây dựng danh mục hoạt động, biện pháp giảm phát thải khí nhà kính khuyến khích trao đổi tín chỉ carbon với các đối tác quốc tế; đàm phán, triển khai thỏa thuận hoặc hợp đồng với các đối tác quốc tế để trao đổi tín chỉ carbon, kết quả giảm phát thải khí nhà kính.
“Cùng với đó, Việt Nam cần chuẩn bị nhân lực chuyên môn, hạ tầng và các điều kiện cần thiết để vận hành sàn giao dịch hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon. Bên cạnh đó, tuyên truyền đúng, đủ về phát triển thị trường carbon tự nguyện và thị trường carbon tuân thủ”, ông Quang nhấn mạnh.
Ông Trần Quang Bảo – Cục trưởng Cục Lâm nghiệp (Bộ NNPTNT): Nhận diện những khoảng trống để hình thành thị trường carbon
Thị trường carbon theo quy định tại Nghị định số 06/2022 sẽ được thiết lập và vận hành vào năm 2028, vì vậy sẽ có “khoảng trống” quy định từ nay đến hết năm 2027 để triển khai thực hiện hoạt động trao đổi, thương mại carbon của rừng. Điều đáng quan tâm hiện nay là, nhu cầu mua bán tín chỉ carbon là rất lớn nhưng hiện nay Việt Nam chưa có quy định về thị trường liên thông quốc tế, hơn nữa ngành lâm nghiệp cũng cần thực hiện nghĩa vụ đóng góp do quốc gia tự xác định (NDC), do vậy khó xác định lượng tín chỉ carbon và giá cả chuyển nhượng bao nhiêu là hợp lý, trong khi nguồn kinh phí để đo đếm, xác nhận số lượng tín chỉ carbon là rất lớn. Vì vậy cần rà soát, lựa chọn tiêu chuẩn phù hợp với Việt Nam và có lợi nhất. Cần kinh phí đầu tư để xây dựng dự án, giám sát, thẩm định và cấp tín chỉ. Bên cạnh đó, việc ưu tiên cấp thiết hiện nay là cần nhận diện những khoảng trống trong khuôn khổ pháp lý, từ đó đề xuất sửa đổi, bổ sung thể chế, chính sách tương ứng, phù hợp để hình thành, vận hành thị trường carbon.
Để tham gia thị trường carbon trong nước và thế giới, Cục Lâm nghiệp đang tham mưu với Bộ NNPTNT chỉ đạo, triển khai thí điểm chuyển nhượng kết quả giảm phát thải và quản lý tài chính thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ và thí điểm chuyển nhượng kết quả giảm phát cho khu vực có tiềm năng khác. Với lợi thế về tài nguyên rừng, ngành lâm nghiệp Việt Nam có tiềm năng, điều kiện để tham gia thị trường carbon rừng trong nước và quốc tế nhằm huy động nguồn lực tái đầu tư cho bảo vệ, phát triển rừng. Hiện tại, Bộ Tài chính cũng đang chủ trì phối hợp với Bộ TNMT xây dựng đề án phát triển thị trường carbon trong nước để trình cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt.
Ông Vũ Trung Kiên – Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ ứng phó biến đổi khí hậu: Thị trường carbon là yếu tố chiến lược để phát triển kinh tế xanh Việt Nam
Để đạt được các mục tiêu khí hậu theo cam kết của Việt Nam với quốc tế, cần có nguồn vốn lớn. Trong khi đó thị trường tín chỉ carbon là một nguồn vốn quan trọng giúp doanh nghiệp và nền kinh tế đất nước chuyển đổi từ “nâu” sang “xanh”, vừa giảm phát thải khí nhà kính, vừa tạo động lực và lợi nhuận cho doanh nghiệp và quốc gia. Cần phải nhìn nhận thị trường tín chỉ carbon như một yếu tố chiến lược để thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam trong tương lai, trong đó 2 yếu tố trụ cột là “xanh” và “số”. Đây cũng là 2 yếu tố mà sàn giao dịch tín chỉ carbon đều đang nắm giữ lợi thế.
Vì vậy để xây dựng thành công các sàn giao dịch tín chỉ carbon cần có tầm nhìn tương lai, trong đó kết hợp với sự học hỏi không ngừng từ các hình mẫu đã có trên thế giới và làm sao thích ứng được với điều kiện Việt Nam. Chúng ta cần tận dụng lợi thế tiềm năng rừng để tranh thủ thời gian trước thời hạn cam kết đang đến rất gần. Cần hoàn thiện khung pháp lý trong nước và đáp ứng phù hợp với các yêu cầu chung của quốc tế. Tiếp theo là quy định tham gia của các bên liên quan, đặc biệt là các doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm giảm phát thải. Ngoài ra cần bổ sung nguồn lực tài chính và đổi mới công nghệ. Đây cũng là những thách thức rất lớn.
Đặc biệt, cần lưu ý thêm câu chuyện về giá tín chỉ. Thực tế, việc định giá tín chỉ carbon hiện nay vẫn đang gặp khó do phụ thuộc nhiều vào việc đánh giá và xác minh giá trị tín chỉ carbon đó theo từng năm, vì chất lượng tài nguyên còn thay đổi tương đối theo thời gian. Về lâu dài, việc về sau phải mua mức giá cao có lẽ là chắc chắn. Nhưng rừng hấp thụ CO2 hằng năm, nên vẫn có “hàng” để bán với giá cao, theo cùng với thị trường. Nước lên thì thuyền lên, chúng ta phải sống chung với thị trường. Tín chỉ carbon chỉ có thời hạn, thường là vài năm. Nếu không bán thì khi hết hạn, tín chỉ sẽ không còn giá trị sử dụng.